Điểm báo ngày 20/10/2021

(CDC Hà Nam)

Đã nên bỏ khu cách ly tập trung và bệnh viện dã chiến?; ‘Nữ tư lệnh hồi sức’; Chị đã có “điều bình thường” ấy rồi; Món quà mong ước: bớt dịch, đoàn tụ gia đình; Ghi nhận 3.034 ca nhiễm mới trong ngày 19.10

Đã nên bỏ khu cách ly tập trung và bệnh viện dã chiến?

Việt Nam đã chuyển trạng thái chống dịch từ ‘zero Covid’ sang sống trong môi trường có dịch. Vấn đề đặt ra là thời điểm này đã nên tính đến việc xóa bỏ khu cách ly tập trung và bệnh viện dã chiến chưa?

Tại cuộc gặp mặt của Thủ tướng với lực lượng tuyến đầu chống dịch, bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu, Giám đốc Bệnh viện (BV) Đại học Y Hà Nội, cho rằng đã đến lúc xóa bỏ các khu cách ly tập trung, các BV dã chiến (BVDC) và thay vào đó là hình thành mạng lưới chăm sóc bệnh nhân (BN) tại nhà theo cấp phường, xã.

Cần tăng năng lực cho y tế cơ sở

Thực tế, nhiều địa phương vẫn đang duy trì các khu cách ly tập trung và chuẩn bị BVDC, nhất là trong bối cảnh tỷ lệ tiêm vắc xin tại các tỉnh còn thấp, nguồn lực y tế mỏng.

Theo TS Nguyễn Thu Anh, Giám đốc Viện Nghiên cứu y khoa Woolcock, Đại học Sydney (Úc), với BVDC khi số lượng F0 ít thì không cần mở. Tuy nhiên, khi quá nhiều F0 trung bình hoặc nặng, nhất là trong bối cảnh vắc xin còn ít mà các BV thông thường không đủ chỗ thì vẫn cần tới BVDC. TS Thu Anh cũng cảnh báo với số lượng lớn người lao động từ TP.HCM và các tỉnh phía nam về các địa phương thì các khu cách ly tập trung có nguy cơ quá tải, có thể dẫn tới lây nhiễm chéo.

Chuyên gia này cho rằng ngoài việc ưu tiên khẩn cấp tiêm vắc xin cho những người dễ tử vong và bệnh nền, cần tăng năng lực của y tế cơ sở, thay đổi mô hình điều trị như tập huấn cho cán bộ y tế các tuyến từ cơ sở, tập huấn cho người dân, huy động đội ngũ tình nguyện viên để hỗ trợ được F0 tại cộng đồng khi số lượng lớn.

“Những vùng có nguy cơ hiện nay như đồng bằng sông Cửu Long dân cư thưa hơn TP.HCM, nhưng các điều kiện về y tế, hỗ trợ an sinh đều không bằng. Vì thế, muốn an toàn phải dự trù xa, tính tới các nguy cơ bùng phát dịch. Việc chuẩn bị, tăng năng lực cho hệ thống y tế từ cấp cơ sở không chỉ tốt cho quản lý dịch bệnh Covid-19 mà còn tốt cho cả quản lý hậu đại dịch tới đây và các bệnh tật khác”, TS Thu Anh đánh giá.

Còn theo PGS-TS Nguyễn Huy Nga, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), việc duy trì khu cách ly tập trung hay không nên giao cho từng địa phương linh hoạt áp dụng. Dù vậy, TS Nga cũng khuyến cáo không nên duy trì các khu cách ly tập trung quy mô quá lớn tới vài nghìn người hoặc không đảm bảo điều kiện, dễ dẫn tới lây nhiễm chéo. Ví dụ, ổ dịch tại BV Việt Đức (Hà Nội), thời điểm phát sinh các ca đầu tiên từ 30.9, nhưng tới nay sau 20 ngày vẫn phát sinh các ca mới, trong khi chủng Delta lây lan chỉ cần 2 – 3 ngày sẽ khởi phát bệnh. Đa số ca bệnh tại BV Việt Đức đã được đưa đi cách ly tập trung tại BV Thanh Nhàn và một số khu cách ly tập trung khác trên địa bàn Hà Nội, cho thấy đã xuất hiện lây nhiễm chéo trong quá trình cách ly.

“Các khu cách ly tập trung đông người, nhiều người ở cùng một phòng điều kiện không đảm bảo nên bỏ vì dễ lây chéo. Nhưng vẫn cần duy trì một số khu cách ly quy mô nhỏ cho các đối tượng có nhu cầu như người nhập cảnh, các F1 tự nguyện đi cách ly vì sợ lây cho gia đình, những người điều kiện nhà cửa quá chật chội”, ông Nga nói và lưu ý các khu cách ly cần đảm bảo điều kiện mỗi người một phòng, tránh tiếp xúc lây chéo lẫn nhau.

Đặc biệt, các khu vực nông thôn hoặc các tỉnh, khi trẻ em là F1 thì không nên bắt buộc đi cách ly tập trung mà nên cho cách ly tại nhà, vì các cháu đều nhỏ, cần người chăm sóc. Tương tự, với người già cao tuổi là F1 cũng cần được cách ly tại nhà.

Chưa nên vội xóa bỏ

Ở góc độ khác, một chuyên gia về y tế với kinh nghiệm phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm cho rằng chưa nên vội xóa bỏ các khu cách ly tập trung và BVDC. Lý do, việc phát hiện sớm, truy vết, cách ly vẫn là biện pháp quan trọng để dịch không lây lan, không bùng phát tại nhiều địa phương.

Đặc biệt, việc tiêm chủng chưa bao phủ đủ lớn để đạt miễn dịch cộng đồng trên phạm vi cả nước. Người tiêm đủ liều vắc xin rồi vẫn còn nguy cơ nhiễm và người đó vẫn có thể lây cho người khác. Người bị lây nhiễm có thể không triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ không phải nhập viện, không gây quá tải, không tử vong nhưng họ lại có thể lây nhiễm và khi lây nhiễm cho người cao tuổi, người có bệnh nền, hay trẻ em, người chưa tiêm vắc xin đầy đủ có thể diễn biến nặng, thậm chí tử vong. Hoặc, họ lây cho những người chưa tiêm vắc xin, lây cho trẻ em… tại những vùng tỷ lệ tiêm chủng thấp như vậy sẽ khiến bùng phát dịch.

Tại VN, hiện nay, trẻ em chưa được tiêm vắc xin, việc tiêm đủ liều vắc xin cho người dân chưa cao và khi chúng ta nới lỏng giãn cách có người nhập cư đến họ chưa tiêm chủng hoặc chưa tiêm đầy đủ thì nguy cơ bùng phát dịch cũng cao.

Với thực tế trên, theo chuyên gia này, việc cách ly các trường hợp nhiễm SARS-CoV-2, phong tỏa trên phạm vi hẹp, truy vết tìm các ca liên quan ca bệnh để cách ly là cần thiết và vẫn đảm bảo không ảnh hưởng đến hoạt động KT-XH.

Đặc biệt, việc cách ly F0 là rất cần thiết trong điều kiện nhiều gia đình nơi ở chật hẹp, vệ sinh chung. Vì vậy, rất cần cân nhắc khi xóa cách ly tập trung. Có thể xem xét thu gọn khu cách ly tập trung nếu đánh giá dịch ổn định chứ chưa thể xóa bỏ. Mở rộng cũng như yêu cầu việc tăng cường cách ly tại nhà với các F0 đủ điều kiện.

Các BVDC cần căn cứ tình hình thu dung điều trị, điều kiện nhân lực để rút gọn hơn. Tuy vậy, trong giai đoạn dịch hiện nay, khi diễn biến của các biến chủng lây lan mạnh, bất ngờ, khó lường, gây bệnh nặng, trong khi đó nhiều nơi BVDC mới hình thành, việc hình thành là để đáp ứng với tình huống “bất trắc” xảy ra, do đó không nên xóa bỏ vì dịch chưa thể lường trước. Trong tình huống dịch diễn biến phức tạp thì chúng ta không khôi phục lại kịp. Chỉ nên xóa bỏ tại một số địa phương vừa qua có dịch bùng phát đã mở ra nhiều BVDC.

Đồng thời, vẫn cần tăng cường nhân lực cho y tế cơ sở, với nhân lực trang thiết bị, sẵn sàng cho điều trị các F0 đủ điều kiện cách ly, điều trị tại nhà. Cần căn cứ tiêu chí đánh giá nguy cơ của Bộ Y tế theo Quyết định 4800/QĐ-BYT để chuẩn bị đủ cơ sở điều trị bao gồm cả cơ sở điều trị hồi sức tích cực ICU (Thanh niên, trang 5).

‘Nữ tư lệnh hồi sức’

‘Cô Hai’, ‘chị Hai’ hay ‘nữ tư lệnh hồi sức’ là cách gọi thân thương của đồng nghiệp, người bệnh dành cho PGS Phạm Thị Ngọc Thảo, phó giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy, 1 trong 10 cá nhân tiêu biểu vừa nhận giải thưởng Phụ nữ Việt Nam năm 2021. “Chị già rồi, phỏng vấn mấy em trẻ, giỏi giang để còn lan tỏa đam mê, truyền cảm hứng. Dịch COVID-19 vừa rồi, có nhiều em kiến thức rất tốt đã xả thân vì cộng đồng” – bà là vậy, chính sự khiêm nhường ấy, suốt bao năm qua hiếm có một câu chuyện nào về mình xuất hiện trên các mặt báo…

Trong chuyên môn hồi sức, bà luôn là người tiên phong đương đầu hóa giải các ca bệnh hóc búa, nhưng lại là người luôn đi sau đồng nghiệp, đàn em, học trò mỗi lần được vinh danh, tán thưởng…

Dành cho người bệnh và đồng nghiệp của tôi…

Gần 30 năm trước, cô gái trẻ Ngọc Thảo tốt nghiệp y khoa, bước chân vào làm việc tại Bệnh viện Chợ Rẫy, gắn bó với lĩnh vực hồi sức cấp cứu từ đó. Trong suy nghĩ của nhiều người, khoa hồi sức cấp cứu vốn là “nơi đầu sóng ngọn gió”, nhưng với một bác sĩ trẻ đam mê tìm tòi, đây chính là “ngôi nhà thứ hai của mình”.

“Hằng ngày thời gian của tôi ở đây còn nhiều hơn ở nhà. Máy móc xung quanh bệnh nhân kêu tít tít, nào là những đèn đỏ, hoặc những dòng chữ cảnh báo… phát liên hồi. Ở đây được xem là vùng học thuật, đọc và học liên tục mà vẫn chỉ là hạt cát mênh mông trong biển trời kiến thức chuyên ngành” – bác sĩ Phạm Thị Ngọc Thảo đúc rút.

Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, bà được xem là “người tiên phong” thực hiện những nghiên cứu mở đường cho chuyên ngành hồi sức cấp cứu. Và trong số ấy, nghiên cứu về hiệu quả lọc máu liên tục trong sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng, viêm tụy cấp nặng đã giúp ngành hồi sức cấp cứu cứu sống nhiều bệnh nhân tưởng chừng không còn hy vọng sống.

Không chỉ thế, nghiên cứu này còn góp phần làm giảm sự tiến triển của suy đa tạng, chi phí chữa bệnh cũng như thời gian nằm viện của bệnh nhân vì thế cũng được giảm đi đáng kể.

Tên tuổi của bà còn gắn liền với ứng dụng kỹ thuật trao đổi oxy qua màng ngoài cơ thể (ECMO) trong điều trị hội chứng nguy ngập hô hấp cấp (ARDS) và viêm cơ tim cấp. Chính kỹ thuật này đã tạo nên kỳ tích, từ buổi ban đầu lạ lẫm đã trở thành hoạt động thường quy của chuyên ngành lúc bấy giờ.

Không chỉ số ca ECMO được thực hiện tăng dần, bà đã cùng với các đồng nghiệp xây dựng thành quy trình kỹ thuật, phác đồ, cứu sống nhiều bệnh nhân rất nặng.

“Chính ứng dụng này đã cứu sống bệnh nhân 91 – phi công người Anh mắc COVID-19, khi phổi đông đặc, hoại tử. Ngày ấy, đã có lúc êkip điều trị có những khoảng lặng, khi diễn tiến bệnh nhân này một xấu đi, thể tích phổi lành chỉ còn 10%, các biện pháp điều trị đã được thực hiện nhưng không cải thiện” – bác sĩ Thảo kể.

Và còn rất nhiều nghiên cứu ứng dụng khác nữa. Cách đây 6 năm, trong ngày được vinh danh tại giải thưởng Kovalevskaia dành cho nhà khoa học nữ xuất sắc, bà nói rằng việc lựa chọn con đường nghiên cứu khoa học, trên hết bắt nguồn từ niềm say mê công việc, dám nghĩ dám làm và chỉ mong tìm ra những giải pháp mang lại hiệu quả cao vào quá trình chữa bệnh cứu người.

“Dù không ít chông gai nhưng đã mang đến nhiều hiệu quả tích cực cho các bệnh nhân, cho đồng nghiệp của tôi và chuyên ngành hồi sức cấp cứu mà tôi đang ngày đêm nỗ lực vì nó” – bác sĩ Ngọc Thảo chia sẻ. Cũng vì lẽ đó, toàn bộ tiền thưởng bà đều để dành để tiếp tục thực hiện mong muốn cháy bỏng là hướng dẫn học trò nghiên cứu khoa học…

Đến “nữ tư lệnh hồi sức”

Có một điều khá đặc biệt, trong suốt gần 2 năm của cuộc chiến chống dịch COVID-19, PGS Phạm Thị Ngọc Thảo chính là “bóng hồng” hiếm hoi luôn có tên và có mặt trong các tổ chuyên gia đặc biệt về hướng dẫn, chăm sóc, điều trị bệnh nhân mắc COVID-19; Ban chỉ đạo an toàn tiêm chủng vắc xin; Ban soạn thảo và xây dựng đề án tăng cường năng lực hồi sức cấp cứu… của ngành y tế TP.HCM và Bộ Y tế.

Và dù với vai trò là tổ trưởng hay thành viên, bà đều để lại dấu ấn nghề nghiệp đặc biệt, góp sức cho ngành y tế có nhiều “lối đi” để cứu sống bệnh nhân ngoạn mục.

Từng là đồng nghiệp, giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy và nay phụ trách Tổ công tác đặc biệt phòng chống dịch của Bộ Y tế tại nhiều tỉnh thành, Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn “rất hiểu” về tính cách của bác sĩ Thảo. Với ông, bác sĩ Thảo là người gần gũi trong ứng xử, luôn phấn đấu trong chuyên môn, và đôi khi hơi “khó tính” trong quản lý.

“Bác sĩ Thảo lại là một người con hiếu thảo; một người mẹ, người vợ đảm đang và là một đồng nghiệp đáng kính, luôn trau chuốt và chia sẻ cùng mọi người” – Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn chia sẻ.

“Ít nói và có phần hơi nghiêm khắc một chút” là cảm nhận của bác sĩ trẻ Huỳnh Thị Thu Hiền khi nói về “cô Hai”. Với bác sĩ Hiền, “cô Hai” và “cô Xuân” (TS Phan Thị Xuân – nguyên trưởng khoa hồi sức cấp cứu) là những người thầy dạy cho mình nhiều thói quen tìm tòi bổ sung kiến thức, cũng như tạo điều kiện cập nhật các thông tin chuyên môn mới.

Kể từ khi bước chân vào công tác tại khoa hồi sức cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy, Hiền đã quen với hình ảnh của một “cô phó giám đốc bệnh viện”, ngày ngày xuống thăm nom, cùng với “lính” bàn luận đưa ra nhiều giải pháp điều trị các ca bệnh hồi sức.

Vẫn góc bàn quen thuộc trong phòng giao ban của khoa hồi sức, trưa trưa “cô Hai” vẫn về ăn cơm cùng đồng nghiệp, học trò. “Cô rất gần gũi, mỗi lần ăn cơm trưa cũng là dịp cô cháu chuyện trò về công việc, những khó khăn gặp phải trong các vấn đề chuyên môn” – bác sĩ Hiền tâm sự.

Và bác sĩ Hiền cũng là một trong số các bác sĩ trẻ được “chọn mặt gửi vàng” cử qua Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM phối hợp cùng điều trị cho bệnh nhân phi công 91 những ngày đầu bệnh nhân chuyển nặng.

Và bao nhiêu công sức của bác sĩ Thảo đổ ra cũng đã được đền đáp xứng đáng; khi trong đợt dịch COVID-19 vừa qua, các học trò của “chị Hai” như bác sĩ Trần Thanh Linh (còn gọi là bác sĩ 91), bác sĩ Huỳnh Quang Đại, Phạm Minh Huy… đều đã trở thành lực lượng hồi sức nòng cốt tại các bệnh viện tầng 3 điều trị COVID-19 của TP.HCM cũng như các tỉnh phía Nam.

Chia sẻ về hành trình gần 30 năm qua gắn bó với ngành y, bác sĩ Ngọc Thảo nói rằng “rất biết ơn các cộng sự”.

“Niềm hạnh phúc của người khoác trên mình màu áo blouse trắng không gì khác được thấy bệnh nhân của mình phục hồi và những học trò, đồng nghiệp của mình ngày một tiến bộ” – bác sĩ Thảo tâm sự (Tuổi trẻ, trang 2).

Chị đã có “điều bình thường” ấy rồi

Hôm nay là ngày thứ 5, TS.BS Trương Anh Thư – trưởng khoa kiểm soát nhiễm khuẩn Bệnh viện Bạch Mai – ở khu cách ly, dù chị đã được về lại Hà Nội, “về nhà” sau 80 ngày dông bão thực sự ở TP.HCM.

Từ khi đi làm, chưa bao giờ bác sĩ Thư vắng nhà nhiều như năm nay: ngay sau Tết Nguyên đán, chị đi chống dịch ở Hải Dương trong gần 4 tuần. Ở Hải Dương, mới về được chút thời gian, chị lại dành 1 tháng ở Bắc Giang.

Tháng 6 từ Bắc Giang về thì ngày 29-7 chị được “lệnh” đi TP.HCM. Lúc ấy đang là những ngày căng thẳng nhất ở TP này, mỗi ngày có hàng ngàn bệnh nhân nhập viện, hàng trăm ca tử vong.

“Bắc Giang, Hải Dương đều là những nơi lần đầu tiên ghi nhận dịch lớn, đồng nghiệp của chúng tôi chưa kịp chủ động được nhiều trong kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện, có khó khăn về kỹ năng và chuyên môn. Còn ở TP.HCM, Bạch Mai phải triển khai một trung tâm hồi sức tích cực hơn 400 giường, trong tình trạng chỉ có một nhà kho trống và một hệ thống oxy” – bác sĩ Thư nhớ lại.

Xây dựng một trung tâm hồi sức tích cực trong một thời gian cực ngắn là điều rất khó khăn, ngay tại cơ sở chính của Bạch Mai ở Hà Nội, tổng số giường bệnh cho bệnh nhân hồi sức tích cực chỉ có hơn 100 giường bệnh, nhưng trung tâm hồi sức tích cực do Bạch Mai phụ trách tại TP.HCM quy mô tiếp nhận đến hơn 400 bệnh nhân.

Hai tuần đầu tiên đầu tháng 8 là những ngày khó khăn nhất, khi nhân lực thiếu, trang thiết bị chống nhiễm khuẩn đảm bảo yêu cầu chưa đủ và phải “ăn đong”. Bệnh viện thiếu từ những vật tư nhỏ nhặt nhất như băng gạc, phương tiện phòng hộ, băng dính tới các máy móc, trang thiết bị phục vụ việc xử lý dụng cụ, đồ vải y tế, rồi số ca tử vong cao.

Áp lực đến từ công việc, từ nỗi bất lực khi các bác sĩ muốn cứu người mà bệnh nhân quá nặng. Có những ngày họ lầm lũi làm việc, chẳng ai nói với ai câu nào. Công việc của bác sĩ Thư trong những ngày dịch COVID-19 đều kéo dài từ sáng đến tối mịt.

Nhiệm vụ của bộ phận kiểm soát nhiễm khuẩn rất nhiều. Từ ngăn chặn lây lan sang nhân viên y tế, nguồn nhân lực y tế đang thiếu thốn, nếu y bác sĩ bị lây nhiễm thì có thể “vỡ trận”. Rồi giữ môi trường bệnh viện luôn sạch sẽ, kiểm soát để người bệnh COVID-19 không bị nhiễm thêm vi khuẩn khác trong quá trình điều trị, bị “nhiễm khuẩn bệnh viện” và tử vong do căn bệnh khác không phải COVID-19.

Trong quá trình ấy, mỗi mắt xích trong cả ngàn nhân viên y tế và bệnh nhân, học viên đều phải được kiểm tra, giám sát thường xuyên, không để một mắt xích nào bị thủng. Trong điều kiện ca làm việc kéo dài, mỗi y bác sĩ đều phải mặc bộ bảo hộ nóng bức, chỉ 1-2 giờ sau khi vào ca là quần áo ai cũng ướt sũng mồ hôi như có người đổ nước vào, găng tay mở ra là chảy nước.

“Sau 2-3 tuần đầu tiên, mọi người cũng “quen” hơn với điều kiện làm việc khắc nghiệt nên ai cũng làm việc hết mình, nhiều bệnh nhân nặng cai được máy thở, được cứu sống, tinh thần mọi người cũng tốt hơn” – bác sĩ Thư nói.

Mới rời TP.HCM, bác sĩ Thư về lại Hà Nội vào ngày 16-10, khỏi phải nói sự bồi hồi khi về lại TP mình, nhà mình, dù vẫn phải cách ly cách nhà vài cây số sau 80 ngày đặc biệt khó quên.

Bác sĩ Thư chia sẻ rằng điều quý giá với chị bây giờ là những điều bình thường nhất, những điều mà trong 80 ngày vừa qua là xa xỉ. Giản dị và bình thường như dạo phố khi rảnh rỗi, ăn một bát phở ngon và uống một tách cà phê với bạn bè, trong không khí ấm áp và bình yên.

Giờ thì bác sĩ Thư và đồng nghiệp có thể có “điều bình thường” ấy rồi. Dù 20-10 này chị vẫn ở khu cách ly.

Cảm ơn các chị – những người đã vác gánh nặng ngàn cân là cứu người, để mang lại bình an cho TP, cho cộng đồng, cho tất cả chúng ta (Tuổi trẻ, trang 3).

Món quà mong ước: bớt dịch, đoàn tụ gia đình

Trong đoàn y bác sĩ 10 người của Bệnh viện điều trị COVID-19 Trưng Vương TP.HCM tham gia hỗ trợ điều trị bệnh nhân COVID-19 tầng 3 tại tỉnh An Giang vào sáng 19-10 có 4 điều dưỡng nữ trẻ.

Nhận lệnh từ giám đốc bệnh viện vào trưa 18-10, họ chỉ có 20 tiếng sắp xếp tất cả công việc, lên đường hỗ trợ tỉnh bạn.

Trước cột cờ bệnh viện, 10 bác sĩ và điều dưỡng chăm chú lắng nghe những căn dặn từ TS Lê Thanh Chiến – giám đốc Bệnh viện điều trị COVID-19 Trưng Vương – rồi nhanh chóng bước lên xe đến tỉnh An Giang. Người ở lại, người đến tỉnh bạn nhưng ai cũng mang tâm thế quyết tâm chống dịch thành công. “Nhận lệnh điều động này, tôi hơi bất ngờ. Tôi và đồng nghiệp đi chưa biết ngày về. Có lẽ, khi nào An Giang kiểm soát được dịch thì ngày ấy tôi trở về” – nữ điều dưỡng Lê Thị Điểm (27 tuổi, khoa nội hô hấp Bệnh viện điều trị COVID-19 Trưng Vương) trao đổi nhanh trước giờ xe xuất phát đến tỉnh An Giang.

Điều dưỡng Điểm cho biết mình làm việc tại Bệnh viện điều trị COVID-19 Trưng Vương đã hơn 2 năm và cũng ngần ấy thời gian là dịch COVID-19 hoành hành tại TP.HCM, nhiều tỉnh thành. Nhà ở Đồng Nai nhưng 5 tháng qua, chị Điểm chưa được về nhà.

Công việc hằng ngày của nữ điều dưỡng Điểm là chăm sóc bệnh nhân COVID-19 từ ăn uống, vệ sinh cá nhân đến tâm sự, động viên…

“Ban đầu tôi còn bỡ ngỡ, gặp nhiều khó khăn nhưng đến 1-2 tuần sau thì quen dần. Nhiều bệnh nhân hơi khó chịu thì mình phải nhẹ nhàng. Khi bệnh nhân đã “hợp tác” thì họ dễ thương lắm, thân quen như người nhà” – chị Điểm kể.

Chia sẻ cảm xúc lúc nhận lệnh điều động chống dịch tại tỉnh An Giang khi cận kề Ngày phụ nữ Việt Nam, điều dưỡng Điểm vui tươi nói: “Tuổi trẻ là phải đi và đây là một cơ hội, trải nghiệm mới – là vinh dự”.

Với chị Điểm, món quà lớn nhất muốn nhận là dịch được kiểm soát, sớm đoàn tụ gia đình. “Tôi rất nhớ ba mẹ, dự định sẽ về nhà khi dịch ở TP.HCM và Đồng Nai ổn định nhưng bây giờ thì tôi đi An Giang. Khi nào tỉnh bạn ổn, tôi sẽ về…” (Tuổi trẻ, trang 3).

Ghi nhận 3.034 ca nhiễm mới trong ngày 19.10

Theo tin từ Bộ Y tế, trong 24 giờ qua, nước ta ghi nhận 3.034 ca nhiễm mới, trong đó có 7 ca nhập cảnh và 3.027 ca ghi nhận trong nước (giảm 132 ca so với ngày trước đó).

Các địa phương ghi nhận số ca nhiễm giảm nhiều nhất so với ngày trước đó là thành phố Hồ Chí Minh (giảm 61 ca), Đắk Lắk (giảm 46 ca), Cà Mau (giảm 38 ca). Các địa phương ghi nhận số ca nhiễm tăng cao nhất so với ngày trước đó là Tây Ninh (tăng 86 ca), Bình Dương (tăng 61 ca), Lâm Đồng (tăng 34 ca). Trung bình số ca nhiễm mới trong nước ghi nhận trong 7 ngày qua là 3.272 ca/ngày.

Cụ thể, tính từ 17h ngày 18-10 đến 17h ngày 19-10, trên Hệ thống quốc gia quản lý ca bệnh Covid-19 ghi nhận 3.034 ca nhiễm mới tại 49 tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh (907), Bình Dương (500), Đồng Nai (371), Sóc Trăng (200), An Giang (134), Tây Ninh (104), Kiên Giang (92), Tiền Giang (79), Đồng Tháp (65), Phú Thọ (59), Long An (51), Trà Vinh (45), Bạc Liêu (41), Cà Mau (39), Khánh Hòa (38), Lâm Đồng (34), Gia Lai (33), Cần Thơ (24), Thanh Hóa (23), Hà Nam (21), Bình Thuận (16), Vĩnh Long (15), Hậu Giang (14), Quảng Nam (12), Bến Tre (12), Hà Nội (11), Quảng Ngãi (11), Bình Định (10), Ninh Thuận (6), Nghệ An (6), Bà Rịa – Vũng Tàu (5), Đắk Nông (5), Bắc Ninh (5), Quảng Bình (5), Hà Tĩnh (4), Ninh Bình (4), Nam Định (3), Bình Phước (3), Hải Dương (3), Phú Yên (3), Quảng Trị (3), Đà Nẵng (2), Sơn La (2), Thừa Thiên – Huế (2), Lào Cai (1), Yên Bái (1), Lai Châu (1), Điện Biên (1), Thái Bình (1); trong đó có 1.220 ca tại cộng đồng.

Kể từ đầu dịch đến nay, Việt Nam có 870.255 ca nhiễm, đứng thứ 40/223 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong khi với tỷ lệ số ca nhiễm/1 triệu dân, Việt Nam đứng thứ 154/223 quốc gia và vùng lãnh thổ (bình quân cứ 1 triệu người có 8.838 ca nhiễm).

Riêng đợt dịch thứ 4 (từ ngày 27-4 đến nay), số ca nhiễm mới ghi nhận trong nước là 865.558 ca, trong đó có 792.029 bệnh nhân đã được công bố khỏi bệnh.

Hiện, có 2 tỉnh đã qua 14 ngày không ghi nhận trường hợp nhiễm mới trong nước: Bắc Kạn, Hòa Bình.

Ngoài ra, có 17 tỉnh, thành phố không có ca lây nhiễm thứ phát trên địa bàn trong 14 ngày qua: Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Ninh Bình, Lạng Sơn, Sơn La, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu, Hải Phòng, Tuyên Quang, Thái Bình, Kon Tum, Hưng Yên, Điện Biên, Thái Nguyên, Đà Nẵng.

Các địa phương ghi nhận số ca nhiễm tích lũy cao trong đợt dịch này: Thành phố Hồ Chí Minh (419.599), Bình Dương (226.353), Đồng Nai (59.386), Long An (33.857), Tiền Giang (15.184).

Về tình hình điều trị, có thêm 1.866 bệnh nhân được công bố khỏi bệnh trong ngày 19-10, nâng tổng số ca được điều trị khỏi là 794.846 trường hợp. Ngoài ra, hiện có 3.522 bệnh nhân nặng đang điều trị tại các cơ sở y tế trên cả nước.

Cũng trong ngày 19-10 ghi nhận 75 ca tử vong tại 10 tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh (47), Bình Dương (11), Đồng Nai (5), Tiền Giang (3), Long An (2), An Giang (2), Bình Thuận (2), Cà Mau (1), Kiên Giang (1), Đồng Tháp (1). Trung bình số ca tử vong ghi nhận trong 7 ngày qua là 83 ca/ngày.

Như vậy, tổng số ca tử vong do Covid-19 tại Việt Nam tính đến nay là 21.344 ca, chiếm tỷ lệ 2,5% so với tổng số ca nhiễm.

So với thế giới, tổng số ca tử vong Việt Nam xếp thứ 34/223 quốc gia và vùng lãnh thổ; số ca tử vong trên 1 triệu dân xếp thứ 134/223 quốc gia và vùng lãnh thổ. So với châu Á, tổng số ca tử vong Việt Nam xếp thứ 10/49 quốc gia và vùng lãnh thổ; số ca tử vong trên 1 triệu dân xếp thứ 29/49 quốc gia và vùng lãnh thổ (Hà Nội mới, trang 7; Sài Gòn giải phóng, trang 7).

Phan Hạnh tổng hợp

Bài viết liên quan

Điểm báo ngày 03/12/2020

CDC Hà Nam

Điểm báo ngày 15/7/2020

CDC Hà Nam

Điểm báo ngày 12/4/2022

CDC Hà Nam