Phụ nữ có dấu hiệu này tiềm ẩn nguy cơ ưng thư vú cao hơn người khác, cần khám sớm để phòng hậu họa

(CDC Hà Nam)

Độ tuổi phụ nữ mắc ung thư vú ngày càng có xu hướng trẻ hóa. Việc điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học và khám vú thường xuyên là điều cần thiết của chị em sau tuổi 40.

Theo số liệu thống kê tại Việt Nam, ung thư vú đang là loại ung thư đứng thứ 2 trong các loại ung thư ở phụ nữ. Một điều đáng buồn là mỗi năm, tỷ lệ mắc ung thư vú dẫn đến tử vong ở phụ nữ Việt Nam là trên 50%.

Bệnh ung thư vú hoàn toàn có thể chữa khỏi nếu được phát hiện sớm. Thực tế cho thấy 80% bệnh nhân ung thư vú có cơ hội chữa khỏi bệnh khi phát hiện ở giai đoạn đầu. Tỷ lệ chữa khỏi giảm xuống còn 60% khi ung thư vú chuyển sang giai đoạn thứ 2. Và khi đến các giai đoạn về sau thì cơ hội lại càng giảm xuống và việc điều trị chỉ mang đến tác dụng duy trì sự sống, chứ hoàn toàn không có khả năng chữa khỏi.

Bệnh nhân ung thư vú phát hiện giai đoạn đầu vẫn có thể sống khỏe mạnh đến 20 năm và lâu hơn thế nữa nếu tuân thủ đúng phác đồ điều trị bác sĩ đưa ra. Bởi vậy việc tầm soát, khám định kỳ sức khỏe là điều hết sức quan trọng để phát hiện sức khỏe bản thân.

Các chuyên gia khuyến cáo, để phòng tránh nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, chị em phụ nữ nên tạo thói quen tự sàng lọc ung thư vú cho mình như khám vú tại nhà. Đây là biện pháp cần thiết giúp phát hiện bệnh sớm để có hướng điều trị kịp thời.

Ngoài ra, cần áp dụng chế độ ăn uống khoa học: giảm một số chất béo như bánh ngọt, bánh pizza, xúc xích… tránh ăn mỡ, da động vật; thực phẩm chế biến sẵn; hạn chế đồ uống có cồn, rượu bia, đồ uống có ga.

Luyện tập thể dục thường xuyên, bổ sung đầy đủ chất đạm (thịt, cá, trứng, sữa…) trong khẩu phần ăn hàng ngày. Ăn nhiều rau củ quả: những loại rau họ cải như bắp cải, bông cải xanh, cải xoăn… vì trong các loại rau họ cải rất giàu glucosinolate. Hoạt chất này có khả năng ức chế sự gia tăng tế bào và ngăn ngừa sự hình thành khối u ở vú.

6 nhóm người có nguy cơ bị ung thư vú cao hơn những người khác

– Phụ nữ sau tuổi 40: ung thư vú có thể gặp ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là những phụ nữ trên 45 tuổi. Đặc biệt, những phụ nữ không sinh con và sinh con đầu lòng sau độ tuổi 30 có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn những người bình thường.

– Người mắc bệnh lý về tuyến vú: như xơ vú, áp xe vú… nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến những tổn thương khó hồi phục ở vùng vú và tiến triển thành ung thư.

– Yếu tố di truyền: trong gia đình nếu có bà, mẹ hay chị gái mắc ung thư vú thì tỷ lệ mắc ung thư vú của cá nhân đó sẽ cao hơn. Phần lớn các trường hợp ung thư vú do di truyền thường từ 2 gen BRCA1 và BRCA2. Những phụ nữ có đột biến gen BRCA1 và/hoặc BRCA2 có thể có đến 80% nguy cơ mắc bệnh.

– Phụ nữ dậy thì sớm (trước 12 tuổi) và mãn kinh muộn (sau 55 tuổi) cũng có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn người khác. Nguyên nhân là do những phụ nữ này chịu tác động lâu dài của hormone estrogen và progesterone.

– Người béo phì cũng là một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Nguyên nhân là do phụ nữ bị béo phì thường sản sinh ra nhiều estrogen hơn so với phụ nữ khác. Béo phì không chỉ làm tăng nguy cơ dẫn đến ung thư vú  mà còn làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, mỡ máu và các bệnh ung thư khác như ung thư buồng trứng, ung thư đại trực tràng, ung thư gan,…

– Người ít vận động: Chế độ ăn uống nhiều calo trong khi cơ thể lười vận động sẽ làm lượng mỡ thừa trong cơ thể tăng cao dẫn đến béo phì và làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Ngoài ra, hút thuốc lá, uống nhiều rượu bia, căng thẳng kéo dài cũng dễ dẫn đến ung thư vú.

Mậu Ngọ (tổng hợp)

 

Bài viết liên quan

Bị viêm dạ dày, cần ăn gì để phòng ngừa nguy cơ khởi phát ung thư?

Ngọc Nga

Rối loạn tiền đình: Nguyên nhân, biểu hiện và điều trị

Ngọc Nga

Phát hiện những điểm lạ với bệnh nhân COVID-19 ở đông bắc Trung Quốc

CDC Hà Nam