Hơn 90% các ung thư đầu cổ là ung thư biểu mô vảy từ biểu mô phủ bề mặt khoang miệng, họng miệng, thanh quản, hạ họng, hốc mũi và các xoang cạnh mũi.
Ung thư vùng đầu cổ bao gồm các tổn thương ác tính của đường hô hấp – tiêu hoá trên. Hơn 90% các ung thư đầu cổ là ung thư biểu mô vảy từ biểu mô phủ bề mặt khoang miệng, họng miệng, thanh quản, hạ họng, hốc mũi và các xoang cạnh mũi.
Ung thư vùng đầu cổ bao gồm các tổn thương ác tính của đường hô hấp – tiêu hoá trên. Hơn 90% các ung thư đầu cổ là ung thư biểu mô vảy (UTBMV) từ biểu mô phủ bề mặt khoang miệng, họng miệng, thanh quản, hạ họng, hốc mũi và các xoang cạnh mũi.
Một số người có yếu tố nguy cơ mắc ung thư vùng đầu cổ:
Người hút thuốc lá, rượu, nếu vừa uống rượu và hút thuốc lá thì nguy cơ mắc UTBMV vùng đầu cổ tăng lên nhiều lần. Ở những đối tượng hút thuốc trên 2 bao/ngày và đồng thời uống trên 4 cốc rượu/ngày (mỗi cốc tương ứng với 12g rượu) có nguy cơ UTBMV vùng đầu cổ tăng lên đến 35 lần.
Tỷ lệ mắc nam cao hơn ở nữ, tuổi trung bình chẩn đoán ung thư đầu cổ thường là 50-70. Tuy nhiên, cũng có thể gặp ở người trẻ tuổi khi uống rượu và hút thuốc lá trong thời gian dài.
Hiện nay, có hơn 120 type HPV khác nhau đã được xác định có mặt ở những người đặc xác định ung thư vùng đầu mặt cổ.
Virus Herpes simplex (HSV) ít liên quan đến sự hình thành ung thư đầu cổ hơn HPV và EBV. Bệnh nhân ung thư đầu cổ có nồng độ kháng thể IgM kháng HSV type 1 cao hơn nhóm chứng. Người ăn trầu có nguy cơ ung thư khoang miệng cao từ 4-35 lần so với người không ăn trầu.
Những người vệ sinh răng miệng kém, chấn thương răng tái diễn, răng bị mẻ sắc nhọn, mang hàm giả không thích hợp, kích thích niêm mạc miệng kéo dài cũng là các yếu tố nguy cơ gây ung thư khoang miệng.
Các yếu tố dinh dưỡng: thiếu sắt gây các biến đổi niêm mạc miệng, tạo điều kiện cho các quá trình ung thư hóa. Thiếu các vitamin A, C và E làm tăng tích lũy các gốc tự do, tạo điều kiện cho sự xuất hiện của ung thư.
Những trường hợp ức chế miễn dịch trong ghép tạng hoặc trong HIV/AIDS cũng liên quan đến tăng nguy cơ ung thư đầu cổ. Sau ghép tạng, nguy cơ ung thư môi tăng lên khoảng 10 lần, đồng thời ung thư đầu cổ tại các vị trí khác cũng tăng từ 2 – 5 lần. Bệnh nhân nhiễm HIV có nguy cơ mắc ung thư cao hơn nhóm không nhiễm HIV. Có những ghi nhận cho thấy tỷ lệ mắc UTBMV vùng đầu cổ cao gấp 2 – 3 lần ở nhóm nhiễm HIV.
Các yếu tố di truyền: Sự hình thành ung thư là một quá trình biến đổi từ một tế bào bình thường thành một tế bào u. Sự rối loạn chức năng của các gene liên quan tới kiểm soát chu trình tế bào dẫn đến sự phát triển quá mức của một số dòng tế bào.
Tổn thường tiền ung thư: là tất cả những bất thường niêm mạc ở đường tiêu hoá – hô hấp trên, mở đường cho một ung thư xâm nhập.
Để dự phòng bệnh ung thư vùng đầu cổ cần loại trừ hoặc giảm tối đa sự tiếp xúc với các chất gây ung thư để phòng không cho xảy ra sự khởi phát và khởi động bệnh ung thư như không hút thuốc, không uống rượu, vệ sinh răng miệng, không nhai trầu…
Ngoài ra, cần sàng lọc và phát hiện sớm những dấu hiệu của bệnh, thậm chí những dấu hiệu của một tình trạng tiền ung thư như hồng sản, bạch sản để điều trị kịp thời. Những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao thì nên hết sức để ý đến những triệu chứng của bệnh để có thể đi khám, phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, điều trị kịp thời.
Phan Hạnh (tổng hợp)