Điểm báo ngày 23/11/2018
Sàng lọc bệnh tăng mỡ máu ở trẻ; Nhiều đóng góp quan trọng trong điều trị ung thư vú; Vĩnh Long 36 bác sĩ tại các bệnh viện công lập xin nghỉ việc; Uống 5 loại thuốc không rõ nguồn gốc, bệnh nhân mắc chứng cứ ra nắng là bỏng da…
Sàng lọc bệnh tăng mỡ máu ở trẻ
Viện Tim mạch (BV Bạch Mai) đang triển khai chương trình quản lý bệnh tăng cholesterol máu cho các trẻ mắc phải có tính gia đình. Đây là bệnh di truyền do đột biến gen chuyển hóa LDL – cholesterol, với biểu hiện tăng cao nồng độ LDL – cholesterol trong máu, xuất hiện ở trẻ nhỏ, trong khi thông thường chỉ số cao chỉ gặp với bệnh nhân sau 40 tuổi … (Thanh niên, trang 7).
Nhiều đóng góp quan trọng trong điều trị ung thư vú
Trong bối cảnh tỷ lệ mắc ung thư vú gia tăng, người bệnh cũng ngày càng trẻ hóa, thì việc áp dụng các biện pháp mới trong chẩn đoán và điều trị giúp cho tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú tại Việt Nam tương đương với các nước phát triển trong khu vực là một dấu ấn đáng tự hào của Việt Nam. Đặc biệt, tại Bệnh viện K, tỷ lệ chữa khỏi đạt trên 75%, ngang với Singapore.
Đây là một trong những kết quả của Cụm công trình khoa họcDịch tễ học, ứng dụng các tiến bộ mới trong chẩn đoán, điều trị và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh ung thư vúvừa được nhận giải Nhất lĩnh vực Y dược Nhân tài Đất Việt 2018. Thành công này thuộc về nhóm tác giả: GS.TS Trần Văn Thuấn, GS.TS Nguyễn Bá Đức, PGS.TS Bùi Diệu, PGS.TS Tạ Văn Tờ và các cộng sự thực hiện, nhưng GS. Thuấn khẳng định đây là cụm công trình của tập thể nhiều thế hệ cán bộ y tế Bệnh viện K hơn 25 năm qua.
Công trình nghiên cứu trên cho thấy ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Việt Nam và tăng qua các năm: Năm 2013 tỷ lệ mắc ung thư vú là khoảng 24.4/100.000 phụ nữ, đến năm 2018 tăng lên tới 26.4. Trung bình mỗi năm cả nước có hơn 15.000 chị em mắc ung thư vú, trên 6.000 trường hợp tử vong, thường xuyên có 42.000 chị em đang sống chung với bệnh này.
Điều đặc, ung thư vú ở Việt Nam có xu hướng trẻ hơn các nước. Xu hướng mắc ung thư vú ở phụ nữ Việt Nam tăng từ độ tuổi 30-34 tuổi và tăng nhanh, đỉnh cao ở 55-59 tuổi với tỷ lệ là 135/100.000 dân. Đáng lưu ý là tỷ lệ người trẻ mắc ung thư vú cao hơn và khả năng chữa khỏi thấp hơn so với những người tuổi cao. Người trẻ mắc ung thư vú còn phải đối mặt với hàng loạt vấn đề tâm lý và xã hội trong và sau điều trị.
Nhưng những nghiên cứu của Bệnh viện K đã đưa ra được phương pháp kết hợp nhuần nhuyễn các các phác đồ kỹ thuật hiện đại của các nhóm chuyên gia khác nhau, giúp các bệnh nhân nữ không chỉ được chữa khỏi mà còn duy trì được hình thức thẩm mỹ của cơ thể, nâng cao chất lượng sống.
Không chỉ thế, các tác giả còn tìm giải pháp để nâng cao tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú, đặc biệt là người trẻ và khẳng định: Quan trọng nhất vẫn là đi khám, phát hiện sớm bệnh. “Chúng tôi đưa ra khuyến cáo mới, thay vì sàng lọc, tầm soát từ 45 tuổi thì phụ nữ Việt Nam nên bắt đầu sàng lọc sớm hơn, từ 40 tuổi trở đi. Thực tế, khi sàng lọc phát hiện sớm với mẫu trên 100.000 phụ nữ, tỷ lệ phát hiện là 59,2 trên 100.000 dân gấp đôi so với tỷ lệ thông thường. Dù là bệnh phổ biến, ở giới đặc thù là chị em song tỷ lệ đến khám, chẩn đoán ung thư vú muộn khá cao trên 50%, ở các giai đoạn 3, 4. Khi đó khả năng chữa khỏi không còn cao như giai đoạn sớm. Chị em cũng cần có thói quen tự khám vú” -GS Thuấn cho biết.
Việc công trình áp dụng thành công hàng loạt các kỹ thuật chẩn đoán hiện đại, đi sâu vào mức độ phân tử như hóa mô miễn dịch, FISH…đã giúp các bác sỹ có cái nhìn sâu hơn về bệnh, để đưa ra phác đồ điều trị nhanh chóng, chính xác và hiệu quả, giải thích tại sao một số người bệnh có đặc điểm tương đồng về tuổi và giai đoạn lại có kết quả điều trị khác nhau xa.
Trước đây, khi mắc ung thư vú thì tiên lượng bệnh rất xấu vì dễ di căn, nguy cơ tử vong cao. Song nhờ áp dụng kỹ thuật mới trong chẩn đoán, điều trị, tỷ lệ sống sau 5 năm đã đảo chiều ngoạn mục. Tỷ lệ sống thêm sau 1-3 năm là 87-98%, kể cả ở các nhóm có di căn hạch tỷ lệ sống không bệnh sau 5 năm là trên 75%. Bệnh viện K là nơi đầu tiên áp dụng phương pháp FISH, để nâng cao tỉ lệ sống cho bệnh nhân.
Bệnh viện còn áp dụng hàng loạt kỹ thuật hiện đại giúp bảo tồn, tái tạo tuyến vú: Các kỹ thuật mổ xẻ hiện đại như oncoplasty gặp nhiều khó khăn do kích thước tuyến vú ở phụ nữ Việt Nam tương đối nhỏ, song Cụm công trình cũng đã giải quyết thành công vấn đề này, đem lại niềm tin cho người bệnh, được các đồng nghiệp trong nước và quốc tế đánh giá cao.
Bên cạnh đó xạ trị kỹ thuật cao như xạ trị điều biến liều IMRT cũng lần đầu được ứng dụng đã giúp tăng tính chính xác và giảm tác dụng phụ đối với các mô lành xung quanh tổ chức u, tăng hiệu quả điều trị ung thư vú, tác dụng phụ hạn chế, cho phép nâng cao liều xạ trị.
Đặc biệt, kết quảnghiên cứu ung thư vú, khảo sát đánh giá các loại ung thư của nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra một v rất quan trọng: Ung thư không đáng sợ như suy nghĩ của người nhiều người và nếu được phát hiện sớm khả năng điều trị khỏi càng cao.
“Ở các nước phát triển họ quan niệm bệnh ung thư chỉ là bệnh mãn tính, viêm nhiễm như bệnh tiểu đường, không phải là bản án tử hình. Một số người nổi tiếng như Lance Armstrong bị ung thư tinh hoàn vẫn vô địch giải đua xe đạp Tour de France. Ở Việt Nam cũng nhiều tấm gương người bệnh chiến thắng bệnh tật. Bằng chứng là các y bác sĩ, những người thầy của tôi vẫn nhận được bó hoa chúc mừng của bệnh nhân sau 40-45 năm tặng. Điều đó cho thấy, ung thư hoàn toàn có thể chữa khỏi nếu quan tâm, đặc biệt là sàng lọc phát hiện sớm” -GS Thuấn nhấn mạnh.
Cũng theo GS. Thuấn, trên 95% người mắc ung thư vú được phát hiện sớm để điều trị sẽ khỏi bệnh. Tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú của Bệnh viện K là trên 70% nhưng nhóm nghiên cứu vẫn kỳ vọng sẽ tăng tỉ lệ chữa khỏi lên nữa nếu nhiều trường hợp được phát hiện sớm hơn. Cơ sở cho mong muốn này chính là trình độ tay nghề phẫu thuật, kinh nghiệm của bác sĩ cũng như máy móc, trang thiết bị đã ngang tầm các nước phát triển.
- Thuấn mong muốn Bảo hiểm Xã hội Việt Nam sẽ chi trả cho chi phí sàng lọc phát hiện sớm bệnh, để tăng tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú, giảm chi phí. Nếu phát hiện muộn việc điều trị tốn kém, lâu dài, hiệu quả không cao. (Công an nhân dân, trang 7).
Vĩnh Long 36 bác sĩ tại các bệnh viện công lập xin nghỉ việc
Theo UBND tỉnh Vĩnh Long, năm 2018, trên địa bàn tỉnh có 3 BV mới được đưa vào hoạt động (380 giường/3 bệnh viện) và BVĐK tỉnh Vĩnh Long được cải tạo, nâng cấp với qui mô 600 giường; đạt tỉ lệ 24 giường/vạn dân. Hệ thống các bệnh viện từng bước phát triển, được đầu tư nâng cấp mới, đảm bảo nhu cầu khám chữa bệnh, điều trị cho người dân, góp phần giảm áp lực cho tuyến trên. Tuy nhiên, hoạt động của các BV công lập gặp không ít khó khăn do tình trạng nhân sự nghỉ việc còn nhiều. 9 tháng đầu năm đã có 64 đơn xin nghỉ việc (trong đó có 36 bác sĩ) đã giải quyết 32 trường hợp, trong đó có 15 bác sĩ. (Lao động, trang 4).
Uống 5 loại thuốc không rõ nguồn gốc, bệnh nhân mắc chứng cứ ra nắng là bỏng da
Được phòng khám tư kê cho 5 loại thuốc uống không có nhãn mác, sau khi sử dụng nam bệnh nhân 65 tuổi đã phải nhập viện điều trị với triệu chứng nổi rát đỏ ở các vùng da hở như đầu mặt cổ, cánh tay, ngứa nhiều, khó chịu khi ra nắng… Theo thông tin từ Bệnh viện Da liễu Trung ương, trường hợp nam bệnh nhân kể trên vừa vào nhập viện điều trị ngày 20-11 trong tình trạng bỏng da hở khá nặng. Qua tìm hiểu, trước khi nhập viện 4 ngày, bệnh nhân này có ho, đau họng, đi khám tại phòng khám tư thì được cho 5 loại thuốc uống không có nhãn mác, chia thành từng liều uống, có cả thuốc viên tây và viên hoàn tán bột.
Sau sử dụng thuốc, bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng dát dỏ, ngứa nhiều vùng da hở. Tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, qua thăm khám và hỏi bệnh, bác sĩ kết luận bệnh nhân mắc Hội chứng tăng nhạy cảm ánh sáng do thuốc.
Theo bác sĩ Trần Thị Huyền, khoa D2 – Bệnh viện Da liễu Trung ương, Hội chứng tăng nhạy cảm ánh sáng do thuốc là bệnh thường gặp, điều trị chủ yếu là dừng sử dụng thuốc nghi ngờ, tránh ra nắng và sử dụng các kem bôi làm dịu da. Bệnh có thể tái phát nếu tiếp tục sử dụng lại thuốc.
Một điều đáng báo động là tình trạng dị ứng thuốc ở Việt Nam ngày một tăng do người dân tự ý sử dụng thuốc điều trị bệnh mà không có chỉ định của bác sĩ, không biết mình dùng thuốc gì, thậm chí sử dụng thuốc không có nhãn như bệnh nhân nêu trên.
Bác sĩ Huyền khuyến cáo bệnh nhân chỉ nên sử dụng thuốc khi thật cần thiết và có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa. Không dùng thuốc mất nhãn mác, thuốc đã chuyển màu, quá hạn sử dụng. Khi thấy hiện tượng sốt, da bị kích ứng, nổi mẩn đỏ, hồi hộp, khó thở…, phải ngưng ngay việc dùng thuốc, đồng thời đến cơ sở y tế khám để được can thiệp kịp thời. (An ninh Thủ đô, trang 4).
Hoại tử nặng vì hút mỡ bụng giảm béo
TS Nguyễn Huy Cảnh, Phó chủ nhiệm phụ trách khoa Y học thực nghiệm cho biết, bệnh nhân bị hoại tử sau khi thực hiện hút mỡ tạo hình thành bụng tại một thẩm mỹ viện.
Mới đây Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 tiếp nhận bệnh nhân N.T. H. (Hà Nội) trong tình trạng tổn thương da bụng sâu, phù nề cùng chằng chịt các vết khâu mổ (ảnh). TS Nguyễn Huy Cảnh, Phó chủ nhiệm phụ trách khoa Y học thực nghiệm cho biết, bệnh nhân bị hoại tử sau khi thực hiện hút mỡ tạo hình thành bụng tại một thẩm mỹ viện.
Bệnh nhân chia sẻ, do mặc cảm với bụng nhiều mỡ nên đã làm phẫu thuật tạo hình thành bụng và hút mỡ bụng ở một cơ sở y tế tư nhân nhưng bị hoại tử. Sau đó bác sĩ của cơ sở này đã mổ cắt lọc tổ chức hoại tử và khâu đóng vết thương tại chỗ nhưng vẫn để lại những vết khâu chằng chịt.
Bác sĩ Cảnh cho hay thường xuyên gặp các ca hoại tử do hút mỡ và tạo hình thành bụng. Hoại tử do hút mỡ và tạo hình thành bụng chủ yếu xuất phát từ việc làm sai kỹ thuật (hút mỡ sai vị trí, hút quá nông hoặc quá sâu) gây tổn thương đến các mạng mạch nuôi vùng da bụng. Hút mỡ không phải muốn hút bao nhiêu là được vì quá trình làm có thể gây tổn thương mạch máu, khi hút mỡ sẽ có lẫn máu. Hay bơm lượng dịch làm tan mỡ thì dịch của tế bào cũng sẽ vào đó và bị hút ra. Do đó hút nhiều mỡ đồng nghĩa với việc cơ thể sẽ mất nhiều dịch, thiếu máu, các chỉ số sinh hóa thay đổi, khối lượng tuần hoàn giảm… Tai biến do hút mỡ tạo hình thành bụng có thể gặp như hoại tử da, tắc mạch phổi, tai biến mạch máu não.
Bác sĩ Cảnh cho biết thêm, không nên hút mỡ quá 4-5% trọng lượng cơ thể. Mỡ là nơi dự trữ năng lượng, hút nhiều quá có thể gây ra rối loạn chuyển hoá của cơ thể. Nếu hút khoảng 1,5 lít trở xuống, các chỉ số sinh hóa không thay đổi. Hút trên 3 lít chắc chắn sẽ ảnh hưởng.
Nguy cơ đáng sợ nhất của hút mỡ là gây tắc mạch phổi. Vì vậy, một số phòng khám ở ngoài bệnh viện thỉnh thoảng có bệnh nhân tử vong là do yếu tố này. Theo các bác sĩ, tắc mạch phổi rất khó xử trí, có khoảng 0,5-1% số trường hợp có thể gây tắc mạch phổi, tỷ lệ tử vong cao. Ở một số nước dù tại bệnh viện, có hệ thống hồi sức cấp cứu tốt thì nguy cơ bệnh nhân bị tắc mạch phổi chết cũng chiếm khoảng 15-50%. TS Cảnh cảnh báo, hút mỡ ở phòng khám ngoài bệnh viện cơ hội cứu sống nếu bị tắc mạch phổi rất thấp. (Tiền phong, trang 6).
Bài 2: Hành trình 10 năm cứu sống người
Đam mê lĩnh vực dị ứng – miễn dịch lâm sàng, bác sĩ Nguyễn Văn Đĩnh cùng cộng sự đã có thành công bước đầu nghiên cứu về phương pháp sàng lọc nguy cơ di truyền dự phòng tổn thương da nặng với hy vọng cứu sống được nhiều người Việt Nam … (Tiền phong, trang 6).