Điểm báo ngày 08/3/2022

(CDC Hà Nam)
Xử lý nghiêm việc bán thuốc điều trị COVID-19 trên mạng; Hà Nội rút ngắn thời gian cách ly tại nhà đối với học sinh đã tiêm đủ liều vaccine; Tái nhiễm COVID-19: Bệnh có nặng hơn lần đầu?; Bộ Y tế đề xuất chỉnh quy định về việc mua thuốc Molnupiravir điều trị Covid-19…

 

Xử lý nghiêm việc bán thuốc điều trị COVID-19 trên mạng

Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) vừa có công văn gửi Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tăng cường kiểm tra việc mua bán thuốc điều trị COVID-19.
Cục Quản lý Dược đề nghị Sở Y tế các địa phương khẩn trương tham mưu cấp có thẩm quyền, phối hợp với các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh, thành phố như Ban Chỉ đạo 389, Quản lý thị trường, Công an tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng khác tăng cường kiểm tra nhằm phát hiện, ngăn chặn các hoạt động mua, bán thuốc điều trị COVID-19 tại các địa điểm kinh doanh không được cấp phép theo quy định hoặc trên các nền tảng mạng xã hội và các nền tảng trực tuyến khác, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm.

Trường hợp phát hiện các hành vi vi phạm có dấu hiệu hình sự thì kịp thời lập hồ sơ chuyển sang cơ quan Công an để xử lý theo quy định. (Công an nhân dân, trang 1).

 

Hà Nội rút ngắn thời gian cách ly tại nhà đối với học sinh đã tiêm đủ liều vaccine

Liên Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế Hà Nội vừa ban hành Hướng dẫn liên ngành  về công tác phòng, chống dịch bảo đảm thích ứng an toàn, linh hoạt kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19 khi học sinh trở lại trường học.

Hướng dẫn này thay thế cho các hướng dẫn liên ngành 3668/HDLN-SGDĐT-YT ngày 25/10/2021 và hướng dẫn liên ngành 21306/HDLN-SGDĐT-YT ngày 3/12/2021.Theo hướng dẫn, các trường hợp F1 sẽ được xử lý linh hoạt hơn so với quy định cũ, các trường hợp F2 không còn là những đối tượng cần xử lý.

Đơn cử như các trường hợp học sinh là F1, sẽ cách ly tại nhà 5 ngày đối với học sinh đã tiêm đủ liều vaccine và 7 ngày đối với học sinh chưa tiêm hoặc tiêm chưa đủ liều vaccine. Đối với lớp có học sinh F0, sau khi xác định F1, cho học sinh không phải là F1 di chuyển sang lớp học dự phòng (nếu có) và khử khuẩn toàn bộ lớp học. Đối với học sinh các lớp học khác, nếu không có sự giao lưu tiếp xúc với F0 thì cho đi học bình thường.

Nếu xác định có học sinh tiếp xúc gần (F1) với F0 thì tiến hành xét nghiệm kháng nguyên nhanh với F1 và xử lý F1 theo quy định. Sở GD&ĐT Hà Nội cũng lưu ý các cơ sở giáo dục không bắt buộc tất cả các học sinh phải xét nghiệm trước khi trở lại trường để học trực tiếp; chỉ xét nghiệm với các trường hợp nghi ngờ (sốt, ho, khó thở hoặc có triệu chứng nghi ngờ khác) hoặc có tiền sử tiếp xúc với F0. (Công an nhân dân, trang 1).

 

Tái nhiễm COVID-19: Bệnh có nặng hơn lần đầu?

Trong những ngày qua, nhiều người đã bị tái nhiễm COVID-19, trong đó có cả người lớn và trẻ em, có người đã tiêm đủ 3 liều vaccine. Nhiều F0 lo lắng, liệu bị tái nhiễm COVID-19 có nặng hơn lần mắc đầu? Một số phụ huynh có con mắc COVID-19 cũng tìm hỏi bác sĩ, liệu con họ có mắc lần hai hay không và nghe nói lần mắc sau nặng hơn lần trước nên khá lo lắng.

Một biến chủng khó nhiễm 2 lần

Cách đây 1,5 tháng, chị Nguyễn Quỳnh Nga (Quảng Ninh) mắc COVID-19 và đã khỏi bệnh. Ngày 5/3, chị thấy đau đầu, nghẹt mũi, rát họng, test COVID-19 lại thấy dương tính. “Lần này tôi đau đầu kinh khủng, người mệt bải hoải”, chị Nga cho biết.

Tương tự, tại Hà Nội, nhiều người nhiễm COVID-19 từ trước Tết Nguyên đán và đã tái nhiễm sau đó chỉ 1 tháng. Chị Phạm Phương Nhung, ở quận Tây Hồ cho biết: “Đúng 4 tuần sau khi khỏi bệnh, tôi đã nhiễm COVID-19 lại. Lần này triệu chứng của tôi là đau đầu, húng hắng ho”. Theo BS Trương Hữu Khanh, Phó Chủ tịch thường trực Hội Truyền nhiễm TP Hồ Chí Minh, nhiều khả năng tái nhiễm COVID-19 là người đã mắc chủng Delta nay nhiễm chủng Omicron. Về nguyên tắc, các trường hợp tái nhiễm là mắc chủng khác. Cùng một biến chủng mà tái nhiễm là rất đặc biệt hiếm, có thể do cơ địa kém.

BS Khanh chỉ ra, một thời gian dài ở TP Hồ Chí Minh, dịch COVID-19 toàn chủng Delta và không có tái nhiễm biến chủng này. Khi xuất hiện chủng Omicron thì khả năng tái nhiễm là có. “May mắn triệu chứng tái nhiễm nhẹ hơn. Đặc biệt người đã mắc chủng Delta, nay tái nhiễm Omicron triệu chứng đều nhẹ”, BS Khanh cho biết.

Theo BS Trương Hữu Khanh, thế giới đều công nhận chủng Omicron rất nhẹ so với biến chủng Detal, khả năng gây bệnh nặng và tử vong thấp hơn. Trẻ em mắc biến chủng Omicron cũng nhẹ, đau họng thoáng qua, có trẻ sốt cao nhưng chỉ sau 24 -36 giờ là hết. Đặc biệt ở Omicron có 2 triệu chứng rõ ràng: Mệt mỏi rất kỳ lạ nhưng không liên quan đến hô hấp và kéo dài 2-3 ngày; đổ mồ hôi nhiều. “Hai triệu chứng này không đáng lo ngại, chỉ cần nghỉ ngơi, uống nước ấm thì bớt đổ mồ hôi. Còn lại các triệu chứng khác chỉ thoáng qua”, BS Khanh nhận định.

Theo BS Phạm Văn Phúc, Phó trưởng Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, các bệnh nhân tái nhiễm COVID-19 sau khoảng 1 tháng khỏi bệnh, triệu chứng nhẹ hơn lần đầu và được tư vấn tự cách ly điều trị tại nhà, không cần nhập viện.

Theo giải thích của BS Phúc, sau khi khỏi COVID-19, cơ thể sẽ sản sinh ra kháng thể để chống lại sự xâm nhập virus SARS-CoV-2. Mặc dù vậy, lượng kháng thể sinh ra của mỗi người khác nhau, phụ thuộc vào cơ địa, bệnh nền… Nếu kháng thể không đủ mạnh, người khỏi bệnh chủ quan không tuân thủ 5K, khi tiếp xúc F0 mang biến chủng mới sẽ có nguy cơ tái nhiễm, như lần đầu tiên, người bệnh nhiễm chủng Delta, lần thứ hai có thể nhiễm chủng Omicron.

Người nhiễm biến chủng Omicron có triệu chứng khác Delta

Nhiều người lo ngại bệnh nặng hơn khi họ tái nhiễm COVID-19 lần hai. BS Khanh cho biết, nhiễm chủng Delta hay Omicron đều theo dõi giống nhau, quan trọng nhất là lắng nghe cơ thể mình, tuân thủ 5K để không phát tán virus cho mọi người xung quanh. “Nhiễm chủng Omicron triệu chứng đau rát họng thời gian ngắn, chỉ khoảng 1,5-2 ngày, người bệnh uống nước ấm hoặc ăn sữa chua sẽ giảm đau. Nếu không ho thì không nên uống thuốc ho. Nếu đau họng quá uống giảm đau Paracetamol, không nên quá lo lắng với triệu chứng đau họng”, BS Khanh nói.

Tuy nhiên, theo BS Khanh, triệu chứng đau họng xuất hiện trong 1-2 ngày đầu khi bệnh khởi phát, nhưng một số người thấy đau họng uống kháng sinh là không đúng. Kháng sinh chỉ có thể uống sau ngày thứ 3-4 phát hiện dương tính mà xuất hiện đau họng, khi đó đã có bội nhiễm. BS Khanh cũng lưu ý, may mắn cơn sốt của người mắc biến chủng Omicron ngắn hơn, nhẹ hơn chủng Delta. Tuy nhiên, có người sốt cao, có người sốt nhẹ, đặc biệt có người lạnh run dù không sốt cao.

“Có 2 triệu chứng của người mắc chủng Omicron là sốt và rét run (không nhiều). Tất cả triệu chứng đó giải quyết bằng thuốc hạ sốt. Người bệnh uống thuốc giảm đau hạ sốt thông thường như Paracetamol, Panadol vì thời gian sốt ngắn không cần biện pháp gì đặc biệt. Ngoài ra người bệnh phải uống nước ấm, uống đủ nước, ăn sữa chua để hỗ trợ thêm”, BS Khanh nói.

BS cũng cho rằng, người bị tái nhiễm thì triệu chứng mau hết, không quá lo lắng test đi test lại. Nếu nhiễm lần đầu có thể là chủng Delta hoặc Omicron, với người đã tiêm đủ liều vaccine sẽ hết sau 7 ngày kể từ ngày xét nghiệm dương tính.

“Nếu trường hợp tái nhiễm chủng Omicron không có gì phải lo lắng, không phải muốn nhanh hết là hết nhanh được, do kháng thể của từng người và liều vaccine đã tiêm. Kể cả với người uống thuốc kháng virus để hết nhanh cũng không phải, thuốc kháng virus chỉ giúp ngăn ngừa bệnh nặng lên và chỉ sử dụng cho người có nguy cơ chuyển nặng. Nếu test lại âm tính là bình thường và người còn 2 vạch đậm cũng là bình thường, quan trọng là sức khỏe của mình. Chúng ta test lại ở ngày thứ 7-10, có người 14 ngày, thậm chí 21 ngày mới âm tính, nên không cần test thường xuyên cho tốn tiền, chủ yếu thấy sức khỏe của mình bình thường là được”, BS Khanh nói.

Khi khỏi COVID-19 thì bao lâu đi làm trở lại? Theo BS Khanh, đối với những nước châu Âu và Mỹ sau khi chủng Omicron quét qua, họ nhận thấy 3-5 ngày đi làm được rồi, vì đặc tính của Omicron lây rất nhanh, bệnh nhẹ và khỏi rất nhanh; thời gian phát virus ra môi trường ngắn, thời gian lây ngắn. Nhưng ở nước ta phải theo quy định của Bộ Y tế.

F0 điều trị tại nhà, sau 7 ngày cách ly, điều trị và có kết quả test nhanh âm tính do nhân viên y tế hoặc người bệnh tự thực hiện dưới sự giám sát của nhân viên y tế bằng ít nhất một trong các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp qua các phương tiện từ xa thì được dỡ bỏ cách ly. Nếu vẫn còn dương tính thì tiếp tục cách ly đủ 10 ngày đối với người đã tiêm đủ liều vaccine và 14 ngày đối với người chưa tiêm đủ liều vaccine.

Còn F0 điều trị tại bệnh viện phải điều trị ít nhất 5 ngày, giảm các triệu chứng lâm sàng, hết sốt (không dùng thuốc hạ sốt)… trước ngày ra viện từ 3 ngày trở lên và có kết quả test PCR âm tính hoặc nồng độ virus thấp hoặc test nhanh âm tính thì được ra viện. Ngược lại sẽ phải tiếp tục cách ly đủ 10 ngày (không nhất thiết phải làm lại xét nghiệm).

Theo khuyến cáo của BS, người khỏi bệnh COVID-19 không nên chủ quan, phải giữ ấm cơ thể, bổ sung dinh dưỡng để không bị hậu COVID-19. Đặc biệt phải tuân thủ 5K, cố gắng ít tiếp xúc với mọi người trong vòng 7 ngày từ khi xét nghiệm âm tính để giảm ít nhất lây nhiễm. (Công an nhân dân, trang 7).

 

Bộ Y tế đề xuất chỉnh quy định về việc mua thuốc Molnupiravir điều trị Covid-19

Trước thực trạng trên, ngày 7-3, Bộ Y tế cho biết đã đề xuất Ban Chỉ đạo Quốc gia điều chỉnh quy định cho phép người phụ trách chuyên môn về dược tại nhà thuốc, quầy thuốc được kê đơn cho bệnh nhân hoặc người mua thuốc Molnupiravir điều trị Covid-19.

Theo Bộ Y tế, Molnupiravir là thuốc mới, cần tiếp tục theo dõi về chất lượng, hiệu quả, an toàn của thuốc trong quá trình lưu hành. Do vậy, thời gian qua, quy định về việc kê đơn và sử dụng thuốc rất chặt chẽ. Người dân chỉ được sử dụng thuốc điều trị Covid-19 Molnupiravir khi có đơn thuốc của y bác sĩ.

Tuy nhiên, hiện nay, số lượng bệnh nhân Covid-19 ngày càng tăng cao, chủ yếu là các ca bệnh mức độ nhẹ, trung bình, được điều trị và cách ly tại nhà. Việc quy định người bệnh muốn mua thuốc kháng virus điều trị Covid-19 phải có đơn thuốc do bác sĩ, y sĩ kê dẫn đến tình trạng quá tải cho hệ thống và cán bộ y tế.

Đồng thời, một bộ phận không nhỏ bệnh nhân sẽ không sớm được tiếp cận với thuốc do phải đi xin xác nhận là F0 của y tế xã phường và có kê đơn của y bác sĩ. Trong khi đó, thuốc này được khuyến cáo sử dụng sớm (trong vòng 5 ngày kể từ khi khởi phát triệu chứng hoặc có kết quả dương tính).

Vì vậy, để đảm bảo việc người bệnh dễ dàng tiếp cận với các thuốc kháng virus điều trị Covid-19 trong bối cảnh số mắc tăng cao những ngày gần đây, Bộ Y tế đề xuất, trong trường hợp người dân tự mua thuốc thì người phụ trách chuyên môn về dược tại nhà thuốc, quầy thuốc được phép kê đơn cho bệnh nhân hoặc người mua thuốc kháng virus.

Tuy vậy, Bộ Y tế cũng nêu rõ: Người được kê đơn (tại quầy thuốc, nhà thuốc) vẫn cần có xác nhận từ cơ sở y tế (bao gồm cơ sở xét nghiệm, cơ sở khám chữa bệnh, trạm y tế) có dương tính với SARS-CoV-2, kể cả xét nghiệm PCR hoặc xét nghiệm nhanh; hoặc người bệnh tự quay clip quá trình thực hiện test kháng thể tại nhà gửi cho người phụ trách chuyên môn của nhà thuốc, quầy thuốc để chứng minh kết quả test dương tính.

Người mua thuốc hoặc bệnh nhân phải ký một bản cam kết, trong đó có các thông tin về người bệnh, ngày test, kết quả test, việc sử dụng thuốc theo mẫu, kèm bản sao chứng minh thư của người bệnh. (An ninh Thủ đô, trang 3).

 

Số ca nhiễm Covid-19 chuyển nặng tại TP.HCM có dấu hiệu tăng

Chiều 7.3, TP.HCM tổ chức họp báo về tình hình kinh tế – xã hội tháng 2.2022 và công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn. Tại buổi họp báo, bà Nguyễn Thị Huỳnh Mai, Chánh văn phòng Sở Y tế, cho biết TP.HCM hiện chưa có báo cáo ban đầu liên quan tỷ lệ người dân tái nhiễm Covid-19 cũng như độ trở nặng của nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, ngành y tế có theo dõi sát sao số liệu ca nhiễm Covid-19 chuyển nặng cũng như ca tử vong trên địa bàn trong thời gian qua. Theo đó, ghi nhận các ca chuyển nặng trên địa bàn có dấu hiệu tăng sau một thời gian giảm dần, còn ca tử vong vẫn đang giảm sâu.

Thuốc kháng vi rút có khả năng giảm giá

Từ thực tế trên, TP.HCM đã có những giải pháp cụ thể để ứng phó tình hình ca nhiễm tăng, như bố trí sắp xếp các cơ sở thu dung điều trị Covid-19 ở các quận huyện, khu chế xuất – khu công nghiệp, các bệnh viện để có thể kích hoạt lại kịp thời khi cần thiết; mở chiến dịch bảo vệ người có nguy cơ; xét nghiệm tầm soát để phát hiện người có nguy cơ cao là F0 và có hướng điều trị; thực hiện hạn chế nguy cơ lây lan trẻ em nhiễm Covid-19 sang nhóm người có nguy cơ; điều chỉnh các hoạt động theo cấp độ dịch Covid-19 ở từng địa phương…

Người phát ngôn Sở Y tế TP.HCM cho hay Bộ Y tế đã cấp phép cho 3 công ty dược lớn sản xuất thuốc kháng vi rút, năng lực sản xuất thuốc khoảng 2 triệu viên/tháng nên sẽ không thiếu thuốc. Đồng thời, sắp tới, Bộ Y tế sẽ cấp phép cho hàng loạt công ty đủ điều kiện sản xuất thuốc điều trị Covid-19, chính vì vậy người dân không nên lo thiếu thuốc. “Sau khi các công ty dược sản xuất rầm rộ thì khả năng thuốc còn giảm giá”, bà Mai nói.

Vụ Bệnh viện Thủ Đức đang được mở rộng điều tra

Về tình hình an ninh trật tự, đại tá Nguyễn Sỹ Quang, Phó giám đốc Công an TP.HCM, thông tin từ năm 2021 đến nay, Công an TP.HCM đã phát hiện 33 vụ việc có liên quan mua hàng hóa và tiền ảo qua các ứng dụng trên mạng xã hội. Phía Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM đã khởi tố 2 vụ và đang điều tra xác minh 31 vụ để xử lý nghiêm.

Theo ông Quang, thủ đoạn chính của loại tội phạm lừa đảo qua app mua hàng tương tự các thủ đoạn lừa đảo truyền thống chính là đánh vào lòng tham của nạn nhân: đầu tư nhẹ nhàng, siêu lợi nhuận… Tuy nhiên, dạng thủ đoạn trên mạng xã hội tinh vi hơn, tiếp cận nhiều nạn nhân. Chính vì vậy, người dân cần phải hết sức cảnh giác, đồng thời khi bị lừa, người dân cần báo cơ quan điều tra công an các quận, huyện, xã, phường để được tiếp nhận vụ việc.

Đại diện Công an TP.HCM cho rằng về tiến độ điều tra các vụ lợi dụng tình hình dịch Covid-19 để trục lợi. Cụ thể, có nhóm đối tượng trục lợi từ chính sách an sinh xã hội; trục lợi thông qua việc tiêm phòng vắc xin Covid-19; trục lợi vật tư y tế như các vụ chiếm đoạt thuốc Molnupiravir để bán ra thị trường, sản xuất thuốc giả.

“Hầu hết các vụ án đã có kết luận điều tra, hiện đã chuyển qua viện kiểm sát và tòa án để xử lý. Còn một số vụ, như vụ việc Bệnh viện Thủ Đức mua kit test của Công ty Việt Á đang được mở rộng điều tra”, ông Quang nói.  (Thanh niên, trang 4).

 

Khỏi COVID-19 vẫn có thể tái nhiễm nhiều lần

Thời gian qua, khi số ca mắc mới liên tục tăng đã xuất hiện nhiều F0 bị tái mắc COVID-19. Các chuyên gia y tế cho rằng một người có thể mắc 2 chủng khác nhau, thậm chí mắc lại cùng 1 chủng sau 1 thời gian nhất định. Bác sĩ Nguyễn Huy Hoàng, Trung tâm ô xy cao áp Việt – Nga (Bộ Quốc phòng), cho biết một ngày tư vấn cho khoảng 100 F0, 5-10% trong số đó đã khỏi bệnh, song lại xét nghiệm dương tính sau 3 tuần đến một tháng. Bác sĩ nhận định, các bệnh nhân này có thể bị tái nhiễm biến chủng mới.

Theo bác sĩ Hoàng, F0 sau thời gian điều trị, xét nghiệm PCR âm tính, nhưng sau đó lại tái dương tính, có thể do quá trình lấy mẫu chưa đúng hoặc cơ thể người bệnh chưa hết hẳn virus, vẫn còn lại xác virus, nhưng đề kháng kém nên virus tiếp tục nhân lên.

“Có nhiều người dù không có triệu chứng gì đặc biệt, nhưng qua 15-20 ngày, virus vẫn chưa hết hẳn, chỉ số CT (định lượng virus trong cơ thể) vẫn dao động ở khoảng 25-30. Với các trường hợp này, cần ăn uống, luyện tập, nghỉ ngơi tốt hơn để sớm có kết quả PCR âm tính”.

Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp, Phó Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho biết để chắc chắn là tái nhiễm, cần giải trình tự gene virus. Nếu gene virus khác nhau, tức có thể có một thay đổi trên bộ gene hoặc là hai biến chủng khác nhau, và nuôi cấy thấy virus còn sống thì chắc chắn người này tái nhiễm. Theo bác sĩ Phạm Văn Phúc, Phó trưởng Khoa Hồi sức Tích cực (Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương), các bệnh nhân tái nhiễm bệnh sau khoảng một tháng khỏi bệnh, triệu chứng nhẹ hơn lần đầu và được tư vấn tự cách li điều trị tại nhà, không cần nhập viện. “Sau khi khỏi COVID-19, cơ thể người bệnh sẽ sản sinh ra kháng thể để chống lại sự xâm nhập virus SARS-CoV-2, lượng kháng thể sinh ra của mỗi người khác nhau, phụ thuộc vào cơ địa, bệnh nền. Nếu kháng thể không đủ mạnh, người khỏi bệnh chủ quan không tuân thủ 5K, khi tiếp xúc F0 mang biến chủng mới sẽ có nguy cơ tái nhiễm, lần đầu tiên, người bệnh nhiễm chủng Delta, nhưng lần thứ hai có thể nhiễm chủng Omicron”, bác sĩ Phúc nói.

PGS.TS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) thông tin, những người tái nhiễm biến chủng mới vẫn có nguy cơ diễn biến nặng nếu chưa tiêm vắc xin. Diễn biến bệnh khi tái nhiễm cũng sẽ phụ thuộc vào mức độ ác tính của biến chủng. Chuyên gia lấy ví dụ, một bệnh nhân từng nhiễm biến chủng Alpha và khỏi bệnh, sau đó tiếp tục nhiễm biến chủng Delta. Do biến chủng Delta có mức độ độc tính cao hơn nên người tái nhiễm vẫn có nguy cơ diễn biến nặng nếu chưa đảm bảo đủ mũi vắc xin.

Có thể tái nhiễm nhiều lần

Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp cho biết tái dương tính là tình trạng được ghi nhận khi người mắc đang trong diễn biến của bệnh. Họ từng có giai đoạn xét nghiệm cho kết quả âm tính, sau đó dương tính. Trong khi đó, tái nhiễm SARS-CoV-2 được hiểu là tiếp tục mắc COVID-19 sau khi đã khỏi hoàn toàn. “Với những trường hợp này, các bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm kiểm tra kháng nguyên, kháng thể, nuôi cấy virus… Căn cứ vào kết quả cùng các yếu tố lâm sàng và dịch tễ, bác sĩ sẽ xác định họ khỏi COVID-19 hay chưa, tái dương tính hay tái nhiễm”, bác sĩ Cấp giải thích.

PGS.TS Trần Đắc Phu, khẳng định đã ghi nhận một số ca tái nhiễm, thậm chí sau khi đã tiêm vắc xin mũi 3. Điều này được ghi nhận trong những báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới cũng như một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, Bộ Y tế chưa công bố bất cứ nghiên cứu, thống kê, số liệu cụ thể về vấn đề này. TS Phu cho biết thêm, các nghiên cứu trên thế giới đến nay chỉ ra, những đợt tái nhiễm sẽ nhẹ hơn so với lần mắc bệnh đầu tiên, dù F0 gặp bất cứ biến chủng nào.

Ngay cả khi kháng thể không đủ mạnh để bảo vệ một người khỏi lần lây nhiễm thứ hai, các tế bào T (tế bào miễn dịch sát thủ) cũng ngăn ngừa chuyển nặng và tử vong. F0 hiếm khi gặp triệu chứng nghiêm trọng. Tuy nhiên, vẫn có tỷ lệ nhỏ bệnh nhân gặp biến chứng nghiêm trọng sau tái nhiễm SARS-CoV-2, điều này phụ thuộc vào thời điểm mắc bệnh. Tái nhiễm sẽ giúp tăng cường miễn dịch ở người bệnh.

Nó có vai trò như liều vắc xin tăng cường. Song bệnh nhân vẫn không được bảo vệ 100%. Nhiều dữ liệu cho thấy một số người tái nhiễm trên hai lần. Do đó các bác sĩ khuyến cáo người dân không nên chủ quan, lơ là, có suy nghĩ đã tiêm 3 mũi hoặc đã nhiễm bệnh thì sẽ không tái nhiễm. Bác sĩ khuyến cáo, những trường hợp có nguy cơ tái nhiễm virus cao vẫn là nhóm hệ miễn dịch kém, mắc bệnh nền, người cao tuổi.

PGS.TS Đỗ Văn Dũng, Trưởng khoa Y tế Công cộng Đại học Y dược TPHCM cho biết: “Khi nhiễm COVID-19 cơ thể sẽ tạo ra miễn dịch, nhưng không phải miễn dịch nào cũng lâu dài, bền vững vì sẽ có sự suy giảm nồng độ kháng thể trong máu. Đó là chưa kể với những biến chủng mới của COVID-19 gần đây sẽ thâm nhập vào các tế bào trong cơ thể rất nhanh mà kháng thể chưa kịp đáp ứng lại được. Thêm nữa, COVID-19 không thâm nhập vào đường máu mà thâm nhập vào niêm mạc, trong khi niêm mạc thường ít kháng thể. Do vậy, kháng thể của cơ thể nếu có chống lại COVID-19 thường không bền vững”. (Tiền phong, trang 12).

 

Tăng cường kiểm tra việc mua, bán thuốc điều trị Covid-19

Bộ Y tế cho biết ngày 7/3, trên Hệ thống quốc gia quản lý ca bệnh Covid-19 ghi nhận 147.358 ca nhiễm mới, trong đó 23 ca nhập cảnh và 147.335 ca ghi nhận trong nước tại 63 tỉnh, thành phố, trong đó có 90.399 ca trong cộng đồng. Tại Hà Nội, số ca mắc ghi nhận trong ngày là 32.317 ca, sau đó đến các tỉnh: Nghệ An, Bắc Ninh, Phú Thọ, Hưng Yên… Trong ngày cũng có 36.993 người mắc Covid-19 được công bố khỏi bệnh và 78 ca tử vong. Kể từ đầu dịch đến nay, Việt Nam có 4.582.058 ca nhiễm Covid-19, trong đó có 40.891 ca tử vong, chiếm tỷ lệ 0,9% tổng số ca nhiễm.

Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) vừa có văn bản đề nghị sở y tế các tỉnh, thành phố tăng cường kiểm tra việc mua, bán thuốc điều trị Covid-19. Cục Quản lý Dược nêu rõ, thuốc kháng vi-rút điều trị Covid-19 nói chung và thuốc Molnupiravir nói riêng là các thuốc khi sử dụng phải tuân thủ theo đúng hướng dẫn của cán bộ y tế để bảo đảm an toàn, hiệu quả cho người sử dụng. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua có hiện tượng nhiều cá nhân rao bán thuốc Molnupiravir trên các nền tảng mạng xã hội.

Hiện tượng mua bán thuốc này không được kiểm soát dẫn đến nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh và hiệu quả điều trị… Do vậy, ngành y tế các địa phương cần chấn chỉnh tình trạng vi phạm pháp luật trong kinh doanh cũng như tăng cường các biện pháp quản lý đối với việc mua, bán, sử dụng thuốc điều trị Covid-19. Tham mưu cấp có thẩm quyền, phối hợp các cơ quan chức năng trên địa bàn tăng cường kiểm tra nhằm phát hiện, ngăn chặn các hoạt động mua, bán thuốc điều trị Covid-19 tại các địa điểm kinh doanh không được cấp phép theo quy định hoặc trên các nền tảng mạng xã hội và các nền tảng trực tuyến khác, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm.

Ngày 7/3, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc phối hợp Bộ Y tế và Tổ chức Y tế thế giới phát động chiến dịch “Hành trình an toàn”, nhằm nhấn mạnh và củng cố tầm quan trọng của việc tất cả mọi người cùng tuân thủ các biện pháp thực hành phòng, chống dịch Covid-19. Chiến dịch kêu gọi tất cả mọi người duy trì các biện pháp phòng ngừa, như thông điệp 5K, khuyến khích việc tiêm chủng vắc-xin phòng Covid-19 cho tất cả các nhóm dân cư cần tiêm chủng để góp phần hiệu quả ngăn chặn sự bùng phát của dịch bệnh.

Kéo dài trong sáu tháng, chiến dịch sẽ góp phần tích cực trong thực hiện “Thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”. Đáng chú ý, ngoài việc chuyển tải qua các phương tiện thông tin đại chúng bằng ngôn ngữ chính, thông điệp của chiến dịch cũng được truyền tải bằng các ngôn ngữ dân tộc, cũng như ngôn ngữ ký hiệu. Để kịp thời ứng phó tình hình đại dịch đang thay đổi nhanh chóng, hoạt động chiến dịch và nội dung truyền thông sẽ được xem xét và điều chỉnh phù hợp. (Nhân dân, trang 8).

 

TPHCM sẵn sàng tiêm vắc xin Covid -19 cho 963.000 trẻ từ 5-11 tuổi

TPHCM sẽ có khoảng 963.000 trẻ trong độ tuổi 5-11 cần tiêm vắc xin ngừa Covid -19. Thành phố đã tổ chức tập huấn tiêm vắc xin cho 1.350 nhân sự thuộc các đội tiêm trên địa bàn. Nhiều bệnh viện đã sẵn sàng kế hoạch tiêm và ứng phó khi có trường hợp xấu nhất xảy ra trong quá trình tiêm chủng (chi tiết xem báo Lao động, trang 1; Sài Gòn giải phóng, trang 1).

 

Báo ngay cho y tế khi trẻ em mắc COVID-19 chăm sóc tại nhà có những dấu hiệu sau

Có 4% trẻ em mắc COVID-19 có thể trở nặng hoặc nguy kịch, thời gian nguy cơ thông thường là vào ngày thứ 5 đến ngày thứ 8. Do đó, người lớn cần báo ngay cho y tế khi trẻ em mắc COVID-19 chăm sóc tại nhà có những dấu hiệu sau
Tại Hướng dẫn chăm sóc tại nhà đối với trẻ em mắc Covid -19, Bộ Y tế nêu rõ cần tạo không gian cách ly riêng cho trẻ nhất là khi trẻ có khả năng tự chăm sóc. Nơi cách ly phải thông thoáng, không sử dụng máy lạnh trung tâm; luôn mở cửa sổ.

Đeo khẩu trang: trẻ em mắc COVID-19 (với trẻ ≥ 2 tuổi), người chăm sóc, người trong gia đình và trẻ em ≥ 2 tuổi.

Giữ khoảng cách tối thiểu 2m giữa trẻ mắc COVID-19 và những người khác nếu có thể được.

Bộ Y tế cũng hướng dẫn, phụ huynh, người chăm sóc trẻ em mắc COVID-19 chăm sóc tại nhà cần theo dõi các dấu hiệu: tinh thần, đếm nhịp thở, mạch, đo SpO2 (nếu có máy đo), bú/ăn, đo thân nhiệt ít nhất 2 lần/ngày, mầu sắc da, niêm mạc, rối loạn tiêu hóa. Đối với trẻ trên 5 tuổi cần chú ý thêm các dấu hiệu đau ngực, đau bụng, rối loạn tiêu hóa, mất khứu giác, thính giác.

Khi có bất kỳ một trong các dấu hiệu, triệu chứng bất thường sau, gia đình cần báo nhân viên y tế hoặc đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất để khám, chữa bệnh:

Đối với trẻ dưới 5 tuối
(1) Tinh thần: trẻ quấy khóc không chịu chơi, không hóng chuyện hoặc li bì, hoặc co giật

(2) Sốt cao liên tục >39 độ C và khó hạ thân nhiệt bằng các phương pháp như dùng thuốc hạ sốt + chườm/lau người bằng nước ấm. Hoặc sốt không cải thiện sau 48h

(3) Trẻ thở nhanh hơn so với tuổi:

– Trẻ < 02 tháng khi thở ≥ 60 lần/phút

– Trẻ từ 02 tháng đến < 12 tháng khi thở ≥ 50 lần/phút

– Trẻ từ 12 tháng đến < 05 tuổi khi thở ≥ 40 lần/phút

(4) Trẻ thở bất thường: Khó thở, thở phập phồng cánh mũi, co kéo hõm ức, cơ liên sườn…

(5) Dấu hiệu mất nước: môi se, mắt trũng, khát nước, đái ít

(6) Tím tái

(7) SpO2 < 96% (nếu có máy đo SpO2)

(8) Nôn mọi thứ

(9) Trẻ không bú được hoặc không ăn, uống được

(10) Trẻ mắc thêm các bệnh khác như: sốt xuất huyết, tay chân miệng

(11) Bất kỳ tình trạng bất ổn nào của trẻ em mà thấy cần cấp cứu

Đối với trẻ trên 5 tuổi:
(1) Cảm giác khó thở.

(2) Ho thành cơn không dứt

(3) Không ăn/uống được

(4) Sốt cao không giảm hay sốt không cải thiện sau 48 giờ

(5) Nôn mọi thứ

(6) Đau tức ngực

(7) Tiêu chảy

(8) Trẻ mệt, không chịu chơi

(9) SpO2 < 96% (nếu có máy đo SpO2 )

(10) Thở nhanh: Nhịp thở của trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi: ≥ 30 lần/phút, trẻ từ 12 tuổi: ≥ 20 lần/phút

(11) Thở bất thường: co kéo hõm ức, liên sườn…

(12) Bất kỳ tình trạng bất ổn nào của trẻ em mà thấy cần cấp cứu.

Theo Sổ tay Chăm sóc trẻ mắc COVID-19 tại nhà do Bệnh viện Nhi trung ương và Trung ương Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam phối hợp phát hành, phần lớn trẻ mắc COVID-19 không triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ (viêm đường hô hấp trên hoặc rối loạn tiêu hóa, hồi phục trong 1-2 tuần).

Có 4% có thể trở nặng hoặc nguy kịch, thời gian nguy cơ thông thường là vào ngày thứ 5 đến ngày thứ 8. Tuy nhiên, bệnh có thể có biến chứng hậu COVID-19, bao gồm các triệu chứng của hội chứng viêm đa hệ thống hoặc “COVID-19 kéo dài” ở trẻ em.

Các chuyên gia nhi khoa của Bệnh viện Nhi Trung ương cũng nêu rõ: Trẻ dưới 12 tháng tuổi và trẻ có các bệnh lý nền như sau có nguy cơ diễn tiến nặng cao: Trẻ sinh non, cân nặng thấp; béo phì, thừa cân; đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa; các bệnh lý ung thư, tim mạch, thần kinh; bệnh hô hấp, gan, thận mạn tính; suy giảm miễn dịch; các bệnh hệ thống và đang dùng corticoid, thuốc ức chế miễn dịch. (Sức khỏe & Đời sống, trang 1).

 

Số ca mắc mới tăng, dịch COVID-19 tại Việt Nam đã đến giai đoạn là ‘bệnh lưu hành’?

Theo Bộ Y tế, đến nay, Tổ chức Y tế thế giới vẫn coi COVID-19 trong tình trạng đại dịch và quan ngại tiếp tục có các biến chủng không lường trước được của virus SARS-CoV-2. Tuy vậy dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chuyển tiếp giữa giai đoạn đại dịch sang giai đoạn ‘bệnh lưu hành’.
Trong báo cáo công tác triển khai các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 tại cuộc họp của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch COVID-19 ngày 5/3, đề cập đến nội dung liên quan đến ‘bệnh đặc hữu’, Bộ Y tế cho biết ‘bệnh lưu hành’ còn được một số chuyên gia gọi là ‘bệnh đặc hữu’.

Đây là sự xuất hiện một cách ổn định của bệnh dịch hoặc tác nhân gây bệnh trong một khu vực địa lý hoặc nhóm quần thể dân số nhất định. Khái niệm này hướng đến tỉ lệ mắc bệnh thường gặp của một bệnh dịch trong một khu vực hoặc quần thể dân số nhất định.

Bộ Y tế cho biết, ‘bệnh lưu hành’ có 4 tiêu chí cụ thể như sau:

Có sự tồn tại thường xuyên tác nhân gây bệnh
Tồn tại quần thể cảm nhiễm và ổ chứa tác nhân gây bệnh
Bệnh dịch xảy ra ở một nhóm đối tượng cụ thể hoặc quần thể dân số trong địa bàn nhất định.
Tỷ lệ mắc bệnh có tính ổn định và có thể dự báo được.
Trong nước, tuy tỷ lệ bệnh nặng, tử vong đã giảm nhiều so với giai đoạn trước nhưng số tử vong ghi nhận hàng ngày vẫn ở mức cao trên dưới 100 trường hợp mỗi ngày, cao hơn cả số tử vong cao điểm hàng năm do bệnh Dại hoặc Sốt xuất huyết, Sởi… Đây là những bệnh lưu hành có số tử vong cao hàng đầu trong các bệnh truyền nhiễm tại Việt Nam.

Hiện nay, các chuyên gia và các quốc gia đang thảo luận và đề xuất coi bệnh COVID-19 là ‘bệnh lưu hành’ (endemic). Về vấn đề này, Bộ Y tế (Cục Y tế dự phòng) đã trao đổi với các chuyên gia trong nước, các chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Trung tâm Dự phòng và kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (USCDC) nhận định đối với bệnh COVID-19 tại Việt Nam, cụ thể:

Thứ nhất, trong nước, virus SARS-CoV-2 đã ghi nhận ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước và số trường hợp nhiễm virus SARS-CoV-2 cũng đã được báo cáo ghi nhận tại tất cả các tỉnh, thành phố, tuy vậy dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chuyển tiếp giữa giai đoạn đại dịch sang giai đoạn ‘bệnh lưu hành’. Thứ hai, tỷ lệ mắc bệnh COVID-19 chưa ổn định và có sự khác biệt rất lớn giữa các địa phương, đặc biệt giữa các tỉnh, thành phố đã từng có tỷ lệ mắc cao trước đo và những tỉnh, thành phố mới có sự gia tăng mạnh trong thời gian gần đây.

Thứ ba, số trường hợp tử vong theo ngày vẫn còn rất cao so với những bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ từ vong hàng đầu trước đây ( hiện theo thống kê ngày 5/3 của Bộ Y tế trung bình 7 ngày qua là 97 ca/ngày- PV)

Thứ tư, virus SARS-CoV-2 liên tục biến đổi và ghi nhận các biến thể mới như Alpha, Delta, Omicron; kể cả trong các biến thể cũng liên tục xuất hiện các biến thể phụ.  Ví dụ như biến chủng Omicron đã ghi nhận các biến thể phụ BA.1, BA.2, BA.3 và các biến chủng này có thể né được miễn dịch, gây tái nhiễm; do đó tỷ lệ mắc tại các quần thể cảm nhiễm là rất khó xác định và chưa có tính ổn định.

Như vậy, trong thời gian này, Việt Nam chưa nên coi dịch bệnh COVID-19 là ‘bệnh lưu hành’ và tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Tổ chức Y tế thế giới cũng như các tổ chức quốc tế, quốc gia khác theo dõi tình hình dịch COVID-19 cũng như cập nhật sự biến đổi của virus SARS-CoV-2 để có thể tham mưu Thủ tướng Chính phủ quyết định coi bệnh COVID-19 là ‘bệnh lưu hành’ khi thời điểm thích hợp.

Theo Bộ Y tế đến nay dịch bệnh cơ bản đang được kiểm soát trên phạm vi cả nước. Tất cả các địa phương đều đã chuyển sang trạng thái “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” theo Nghị quyết 128/NQ-CP của Chính phủ.

Tuy vậy, số mắc mới có xu hướng gia tăng nhanh tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong tháng qua (với khoảng 50.000-75.000 ca mỗi ngày, ngày cao nhất là hơn 131.000 ca), số trường hợp mắc tăng nhiều hơn ở nhóm chưa tiêm vaccine, nhất là nhóm dưới 12 tuổi (tháng 01 là 18,4% và tháng 02 là 24,3%); số trường hợp nặng, nguy kịch bắt đầu có sự gia tăng 37,6% so với tháng trước, số trường hợp tử vong trên dưới 100 ca mỗi ngày, hiện vẫn trong khả năng đáp ứng của hệ thống y tế.

Biến chủng Omicron có xu hướng gia tăng lây nhiễmnhanh trong thời gian gần đây phổ biến ở các tỉnh, thành phố, nhất là TP. Hà Nội và TP HCM thay thế dần biến thể Delta.

Theo báo cáo của TP. Hà Nội biến chủng Omicron đã ghi nhận ở 20/30 quận, huyện; biến thể BA.2 chiếm tới 87% tổng số các mẫu phát hiện biến thể Omicron (biến thể phụ BA.2 có khả năng lây lan nhanh hơn 1,5 lần biến thể gốc BA.1 và có khả năng tránh tác động miễn dịch của các loại vắc xin hiện tại hơn biến thể gốc BA.1 khoảng 30%);

Tại TP HCM biến chủng Omicron chiếm tới 76% số mẫu có kết quả giải trình tự gen.

Tuy nhiên do tỷ lệ bao phủ vaccine cao trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt là đã có sự chăm sóc đối tượng nguy cơ cao nên tỷ lệ chết/mắc trên phạm vi toàn quốc giảm sâu (ngày 1/2 là 0,9% và ngày 03/3 là 0,1%). (Sức khỏe & Đời sống, trang 8).

 

Bộ Y tế đề xuất cho phép nhà thuốc được kê đơn thuốc Molnupiravir điều trị COVID-19

Bộ Y tế vừa đề xuất Ban Chỉ đạo Quốc gia điều chỉnh quy định cho phép người phụ trách chuyên môn về dược tại nhà thuốc, quầy thuốc được kê đơn cho bệnh nhân hoặc người mua thuốc Molnupiravir điều trị COVID-19.
Theo Bộ Y tế, việc hiện có quy định chặt chẽ là do Molnupiravir là thuốc mới, cần tiếp tục theo dõi về chất lượng, hiệu quả, an toàn của thuốc trong quá trình lưu hành.

Đảm bảo cho người bệnh dễ dàng tiếp cận với các thuốc Molnupiravir điều trị COVID-19

Đến nay, thuốc đã được Bộ Y tế cấp phép lưu hành có điều kiện trong 3 năm và phải kiểm soát chặt chẽ sau khi cấp phép. Người dân chỉ được sử dụng thuốc điều trị COVID-19 Molnupiravir khi có đơn thuốc của y bác sĩ. Việc tự ý sử dụng tiềm ẩn nhiều nguy cơ do các tác dụng không mong muốn của thuốc cũng như có thể tạo ra những chủng virus mới.

Bộ Y tế cho biết, tại Anh, Mỹ, Nhật và một số nước phê duyệt Molnupiravir sử dụng khẩn cấp, thuốc này chỉ có thể được kê bởi bác sĩ, y tá đã đăng ký thực hành nâng cao, trợ lý bác sĩ đã được cấp bằng và cấp phép kê đơn theo luật.

Tuy nhiên, hiện nay, số lượng bệnh nhân COVID-19 ngày càng tăng cao (chủ yếu là các ca bệnh mức độ nhẹ, trung bình, được điều trị và cách ly tại nhà). Còn việc mua thuốc kháng virus điều trị COVID-19 phải có đơn thuốc do bác sĩ, y sĩ kê dẫn đến tình trạng quá tải cho hệ thống và cán bộ y tế và bệnh nhân không sớm được tiếp cận với thuốc.

Trong khi đó, thuốc này được khuyến cáo sử dụng sớm (trong vòng 5 ngày kể từ khi khởi phát triệu chứng hoặc có kết quả dương tính).

Để đảm bảo việc người bệnh dễ dàng tiếp cận với các thuốc kháng virus điều trị COVID-19 trong bối cảnh số mắc tăng cao những ngày gần đây, đồng thời đảm bảo kiểm soát chặt chẽ theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Bộ Y tế đã có báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch COVID-19 đề xuất, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ một số nội dung về việc cấp phát thuốc.

Áp dụng đối với thuốc kháng virus điều trị COVID-19 dùng đường uống

Cụ thể, đối với việc cấp phát thuốc điều trị miễn phí, có thể giao các địa phương, cơ sở y tế thực hiện mua sắm thuốc điều trị COVID-19 (trong đó có thuốc Molnupiravir đã được cấp phép lưu hành tại Việt Nam) theo quy định để đáp ứng kịp thời nhu cầu điều trị của đơn vị.

Về quy định kê đơn cho người bệnh mắc COVID-19, Bộ Y tế nêu rõ: Người được kê đơn (tại quầy thuốc, nhà thuốc) cần có xác nhận từ cơ sở y tế (bao gồm cơ sở xét nghiệm, cơ sở khám chữa bệnh, trạm y tế) có dương tính với SARS-CoV-2, kể cả xét nghiệm PCR hoặc xét nghiệm nhanh; hoặc người bệnh tự quay clip quá trình thực hiện test kháng thể tại nhà gửi cho người phụ trách chuyên môn của nhà thuốc, quầy thuốc để chứng minh kết quả test dương tính.

Hướng dẫn cũng đề xuất người phụ trách chuyên môn về dược tại cơ sở bán lẻ thuốc căn cứ vào kết quả xét nghiệm, xác định được ít nhất 1 nguy cơ chuyển nặng của bệnh nhân.

Người mua thuốc hoặc bệnh nhân phải ký một bản cam kết, trong đó có các thông tin về người bệnh, ngày test, kết quả test, việc sử dụng thuốc theo mẫu, kèm bản sao chứng minh thư của người bệnh.

Bộ Y tế cũng xây dựng tờ hướng dẫn sử dụng để người bán thuốc hướng dẫn người mua, trong đó có các thông tin: đối tượng sử dụng, liều dùng, cách dùng, theo dõi sau khi dùng, cách xử trí khi gặp các phản ứng bất thường (không hiệu quả, tác dụng phụ…) cần báo cho cơ sở y tế.

Đồng thời cho biết sẽ áp dụng công nghệ thông tin phối hợp với Hệ thống cảnh giác dược quốc gia để nhà sản xuất, người bệnh, cán bộ y tế báo cáo các thông tin liên quan đến an toàn, hiệu quả của thuốc khi sử dụng và sau khi sử dụng để tiếp tục đánh giá an toàn, hiệu quả của thuốc sau khi được cấp phép lưu hành.

Tuy nhiên, Bộ Y tế cho biết đề xuất này chỉ áp dụng đối với thuốc kháng virus điều trị COVID-19 dùng đường uống và tại các địa bàn có tình hình dịch bệnh tăng cao, hệ thống cơ sở y tế quá tải, không thể thực hiện hiệu quả việc kê đơn thuốc, bán thuốc theo đơn cho người bệnh theo quy định.

Giám đốc Sở Y tế tỉnh/thành phố căn cứ vào tình hình dịch bệnh và hệ thống cơ sở y tế trên địa bàn để quyết định việc áp dụng phương án cho phép người phụ trách chuyên môn về dược tại nhà thuốc, quầy thuốc được phép kê đơn cho bệnh nhân hoặc người mua thuốc kháng virus.

Lý do là vì các thuốc kháng virus điều trị COVID-19 là thuốc mới, cần phải có sự giám sát an toàn hiệu quả khi đưa ra sử dụng rộng rãi, quan trọng nhất là việc chỉ định sử dụng thuốc cho đối tượng nào, liều dùng cần có ý kiến của bác sĩ, y sĩ thông qua việc thăm khám theo quy định.

Việc cho phép người phụ trách chuyên môn về dược tại nhà thuốc, quầy thuốc được phép kê đơn có thể chưa được kiểm soát chặt chẽ và thận trọng dẫn đến tình trạng lạm dụng thuốc, sử dụng thuốc không đúng mục đích gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng. (Sức khỏe & Đời sống, trang 8).

Quản Trọng Đoàn

Bài viết liên quan

Điểm báo ngày 19/2/2021

CDC Hà Nam

Điểm báo ngày 09/12/2021

CDC Hà Nam

Điểm báo ngày 07/1/2019

CDC Hà Nam