Khẩn trương ban hành hướng dẫn kết hợp các phương thức xét nghiệm
Chiều 19-5, Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch Covid-19 đã có cuộc họp dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Trưởng Ban Chỉ đạo.
Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam yêu cầu phải tăng cường kỷ cương, siết chặt quản lý việc tiếp nhận, đón, cách ly người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài về. Theo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, về mặt lý thuyết, dự thảo quy định, hướng dẫn về quản lý cách ly y tế kết hợp hệ thống công nghệ thông tin đã rất chặt chẽ, các bộ ngành rà soát, đánh giá lại một lần nữa, sau đó hoàn thiện, ban hành. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đề nghị Bộ Y tế khẩn trương xây dựng, ban hành hướng dẫn kết hợp các phương thức xét nghiệm khác nhau đối với người từ nước ngoài về Việt Nam, trước hết là đường hàng không. Sau khi xét nghiệm, có thể phân loại để không phải tất cả mọi người phải cách ly tập trung 21 ngày hay 14 ngày như nhau, người nào an toàn chỉ cần cách ly tập trung 7 ngày và tiếp tục về nhà theo dõi y tế. Đây là việc rất quan trọng, giúp cho việc giao thương, đón chuyên gia nước ngoài vào và đưa người Việt Nam về nước bảo đảm an toàn.
Ban chỉ đạo cũng thảo luận việc xây dựng bộ tiêu chí về mức độ đánh giá nguy cơ dịch bệnh tại các địa phương theo 4 cấp (xã, huyện, tỉnh, toàn quốc), 4 mức: bình thường mới, nguy cơ, nguy cơ cao và rất cao. “Phải thiết lập được một hệ thống chuẩn, tiêu chí và công nghệ kèm theo để Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ban chỉ đạo nắm được trong ngày tình hình dịch bệnh cả nước như thế nào, nơi nào nguy cơ cao, rất cao, đi kèm với đó là các biện pháp ứng phó. Quan trọng hơn, dự báo tình hình trong những ngày tới và đưa ra các khuyến nghị và giải pháp phù hợp với tình hình thực tế”, Phó Thủ tướng nêu rõ.
Tối 19-5, Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch Covid-19 cho biết, trong ngày, cả nước có thêm 178 ca mắc Covid-19, trong đó có 3 ca nhập cảnh được cách ly ngay; 175 ca mắc còn lại được ghi nhận tại các khu vực cách ly, phong tỏa ở nhiều tỉnh, thành, trong đó, Bắc Giang có 98 ca, Bắc Ninh 47 ca, Điện Biên 7 ca, TPHCM 2 ca…
Cùng ngày, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương đã giải trình tự gene các mẫu do các địa phương gửi về ở những bệnh nhân đã mắc Covid-19. Kết quả giải trình tự gene có tới 29 mẫu thuộc biến thể B.1.617.2 là biến chủng lần đầu tiên được tìm thấy ở Ấn Độ, trong đó có Hà Nội (10 mẫu), Bệnh viện K (5 mẫu), Bắc Giang (9 mẫu), Bắc Ninh (2 mẫu), Vĩnh Phúc (2 mẫu), Hải Phòng (1 mẫu); cùng với đó là 2 mẫu thuộc biến thể B.1.1.7 thuộc biến chủng ở Anh tại Hải Dương. Theo GS-TS Đặng Đức Anh, Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, trong đợt dịch thứ 4 này, hầu hết các ca dương tính virus SARS-CoV-2 thuộc biến chủng Ấn Độ; riêng tỉnh Hà Nam, Hải Dương chưa ghi nhận biến chủng này (Sài Gòn giải phóng, trang 1).
Bắc Giang, Bắc Ninh căng mình chống dịch
Trước tình hình dịch Covid-19 đang gia tăng ở Bắc Giang và Bắc Ninh, ngày 19-5, Bộ Quốc phòng đã thành lập 2 bệnh viện dã chiến tại cơ sở 2 Trường Sĩ quan Chính trị ở TP Bắc Ninh (tỉnh Bắc Ninh) và Trung đoàn 831 thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bắc Giang ở huyện Tân Yên (tỉnh Bắc Giang). Mỗi bệnh viện dã chiến được tổ chức thành 4 cơ quan và 10 khoa, với biên chế hơn 100 người và quy mô 300 giường bệnh (sẵn sàng nâng hệ số sử dụng lên 500 giường). Cùng ngày, Bệnh viện Bạch Mai bắt đầu hỗ trợ Bắc Giang thành lập bệnh viện dã chiến với quy mô 600 giường. Dự kiến, ngày 20-5, lực lượng chức năng sẽ xây dựng bệnh viện dã chiến này, dự kiến sau 3 ngày sẽ hoàn thiện, đi vào hoạt động. Đồng thời, Bệnh viện Bạch Mai còn hỗ trợ Bắc Giang xây dựng đơn vị ICU (đơn vị hồi sức tích cực) với quy mô 58 giường tại Bệnh viện Phổi Bắc Giang.
Cùng ngày, Ban Chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 tỉnh Bắc Giang khẩn cấp yêu cầu các huyện, thành phố trên địa bàn lấy mẫu xét nghiệm tất cả công nhân, người lao động của Công ty TNHH Hosiden Việt Nam (ở KCN Quang Châu, huyện Việt Yên) đang cách ly tại nhà và cách ly tập trung; cách ly nghiêm ngặt khu riêng biệt đối với công nhân, người lao động của công ty này; truy xét kỹ không được để sót công nhân, người lao động của Công ty TNHH Hosiden Việt Nam và các F1, F2, thông báo rộng rãi trên các phương tiện truyền thông để nhân dân giám sát. Theo UBND tỉnh Bắc Giang, ổ dịch ở Công ty Hosiden Việt Nam rất phức tạp, với trên 200 F0 (tính từ ngày 14-5), hơn 1.700 F1 và gần 5.000 F2. UBND tỉnh Bắc Giang cũng quyết định cách ly xã hội theo Chỉ thị 16 CT-TTg thêm huyện Lạng Giang, Lục Nam và Yên Dũng để phòng chống dịch. Chiều cùng ngày, UBND tỉnh Bắc Ninh đã quyết định cách ly xã hội toàn huyện Yên Phong kể từ 14 giờ cùng ngày. Trước mắt, huyện Yên Phong sẽ thực hiện cách ly trong thời gian 3 ngày để lực lượng chức năng tập trung rà soát, truy vết, xét nghiệm, khoanh vùng các trường hợp có nguy cơ cao đến từ vùng dịch, tùy theo diễn biến của tình hình dịch bệnh sẽ quy định thời gian kéo dài cụ thể. Như vậy, đến nay tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện giãn cách xã hội đối với 7/8 đơn vị hành chính cấp huyện (Sài Gòn giải phóng, trang 9).
Thủ tướng Chính phủ ký ban hành nghị quyết về việc mua vaccine phòng Covid-19
Thủ tướng Chính phủ vừa ký ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP về việc mua vaccine phòng Covid-19. Tại Nghị quyết, Chính phủ giao Bộ Y tế khẩn trương tổ chức thực hiện mua vaccine một cách nhanh nhất để có thể triển khai tiêm vaccine trên diện rộng cho nhân dân.
Trước đó, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhiều lần nhấn mạnh, trước những diễn biến mới của dịch bệnh, công tác phòng, chống dịch cần tiếp tục chuyển trạng thái, kết hợp hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa phòng ngự và tấn công, thực hiện hiệu quả chiến lược “5K+vaccine”.
Thủ tướng yêu cầu kiên quyết thực hiện có hiệu quả chiến lược vaccine, cụ thể là đẩy nhanh hơn nữa việc tiếp cận mua, nhập khẩu các nguồn vaccine theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; nhận chuyển giao công nghệ, đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu và sản xuất vaccine trong nước; tổ chức tiêm chủng cho hiệu quả, chủ động phòng ngừa sự cố và giải thích rõ khi có sự cố.
Trong điều kiện “chống dịch như chống giặc”, khan hiếm vaccine phòng, chống Covid-19 trên toàn cầu, để sớm có vaccine và tiêm cho nhân dân theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Y tế và các bộ, ngành nêu cao tinh thần trách nhiệm vì sức khỏe nhân dân, sức khỏe cộng đồng, lợi ích của quốc gia, dân tộc, cùng cộng đồng trách nhiệm, thống nhất thực hiện các giải pháp để có vaccine sớm nhất. Đây là tình huống cấp bách, vì thế việc mua vaccine phải được xử lý theo quy định của pháp luật về các trường hợp đặc biệt, cấp bách và phải được thực hiện ngay (Nhân dân, trang 8).
Diễn biến, kinh nghiệm và bài học ứng phó đại dịch Covid-19
I. Diễn biến dịch COVID-19 toàn cầu
Ngày 11-3-2020, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xác nhận lây nhiễm Covid-19 trên thế giới đã trở thành đại dịch toàn cầu. Sau hơn một năm, trạng thái dịch toàn thế giới đã thay đổi rất lớn, theo hướng xấu đi, vẫn chưa kiểm soát và giảm lây nhiễm được.
Việc phòng, chống dịch Covid-19 là chưa có tiền lệ với nhân loại nên thực tế hơn một năm qua, các nước vừa làm, vừa học, rút kinh nghiệm. Tuy nhiên, quy mô người nhiễm phải được điều trị trong các bệnh viện (họ là nguồn lây nhiễm chủ yếu tạo ra lây nhiễm cộng đồng và dịch ở các nước) không ngừng tăng lên, từ 75.727 lên 18.937.963 người, chưa có dấu hiệu trở về mức khi công bố có dịch (11-3-2020), chứng tỏ việc phòng, chống Covid-19 của nhân loại về tổng thể là chưa đem lại kết quả toàn cầu mong muốn.
Qua thống kê cho thấy, số người đang được điều trị trong các bệnh viện tăng từ 10 người, khi WHO công bố đại dịch Covid-19 ngày 11-3-2020, lên đạt đỉnh 2.461 người/một triệu dân vào ngày 24-1-2021, sau đó giảm dần. Tức là xét góc độ toàn thế giới, loài người vừa trải qua làn sóng thứ nhất của đại dịch Covid-19. Nếu như nhiều nước châu Âu, châu Mỹ, châu Á từ tháng 3-2021 không nới lỏng các quy định phòng, chống dịch thì số người đang được điều trị trên một triệu dân đã tiếp tục giảm, song các biện pháp nới lỏng đã làm dịch bùng phát trở lại từ ngày 11-3. Ðến ngày 30-4 có 2.455 người đang được điều trị trên một triệu dân, gần tương ứng đỉnh dịch của làn sóng thứ nhất.
Ngày 11-3-2020, khi WHO ghi nhận lây nhiễm Covid-19 trên toàn thế giới đã trở thành đại dịch, thì có xấp xỉ 10 người lây nhiễm đang được điều trị/1 triệu dân. Vì vậy, có thể lấy chỉ số: 10 người nhiễm đang được điều trị/1 triệu dân là ngưỡng để phân biệt: Một đất nước đang có lây nhiễm Covid-19 có phải là có dịch hay không? Nếu số người đang điều trị/1 triệu dân nhỏ hơn 10 thì có nghĩa nước đó có lây nhiễm Covid-19, song chưa có dịch. Còn nước có số người đang điều trị/1 triệu dân lớn hơn 10 thì có nghĩa là nước đó đang có dịch. Sau ngày 11-3-2020, dịch Covid-19 trên toàn thế giới đang ngày gia tăng, đạt đỉnh của làn sóng thứ nhất ngày 24-1-2021, sau đó giảm, nhưng sau ngày 11-3-2021 lại tăng và ngày 30-4-2021 có mức lây nhiễm trong cộng đồng dân cư gấp 250 lần ngày 11-3-2020.
II. Nhận xét, kinh nghiệm và bài học
1. Ba nhận xét
Trong khi trên toàn thế giới về tổng thể từ tháng 1-2020, đến tháng 4-2021 việc phòng, chống dịch Covid-19 không đạt kết quả mong muốn thì có 23 nước và vùng lãnh thổ có số người đang điều trị/1 triệu dân dưới 10 người, tức là không có dịch. Tổng dân số của 23 nước và vùng lãnh thổ không có dịch là 1.752 triệu người, chiếm 22,7% dân số thế giới, tổng số người đang điều trị là 2.033 người, chiếm 0,01% tổng số người đang điều trị của thế giới. Từ thực tiễn phòng, chống dịch Covid-19 của các nước này, rút ra ba nhận xét:
Nhận xét 1: Yếu tố quy mô dân số và thu nhập đầu người không phải là các yếu tố chủ yếu quyết định một đất nước có phòng, chống dịch thành công hay không.
Nhận xét 2: 23 nước và vùng lãnh thổ phòng, chống dịch tốt nhất thế giới, sau hơn một năm không có dịch, đã thành công mà không cần sự trợ giúp của vắc-xin. Cái giá phải trả là phải cách ly người nước ngoài đến nước mình, sau kiểm tra không bị nhiễm Covid-19 thì mới được đi lại bình thường, người dân phải đeo khẩu trang khi ra ngoài, thực hiện hạn chế tiếp xúc tùy theo đặc điểm các vùng trong mỗi nước…
Nhận xét 3: Một đất nước có thế có các đợt lây nhiễm với cường độ của dịch, số người đang điều trị cao gấp nhiều lần ngưỡng có dịch, song nếu nó không cao quá 32 lần thì luôn có cơ hội đưa số người đang điều trị trở lại mức dưới 10 người/1 triệu dân, hết dịch.
2. Ba bài học và kinh nghiệm
Từ nhận xét 3 nêu trên có thể rút ra bài học là: Ðể có thể đưa trạng thái lây nhiễm Covid-19 của đất nước xuống dưới ngưỡng có dịch, tức là từ đang có dịch thành hết dịch, tuy vẫn còn lây nhiễm, thì ngay từ khi lây nhiễm còn quy mô nhỏ, thậm chí dưới ngưỡng có dịch hoặc khi dự báo có những yếu tố hội tụ để có nguy cơ bùng phát làn sóng lây nhiễm mới và xuất hiện dịch, thì cần triển khai đồng bộ tất cả các giải pháp cần thiết để giảm nhanh nhất tốc độ lây nhiễm ở cộng đồng, làm cho chỉ số số người đang điều trị/1 triệu dân càng thấp càng tốt và xấu nhất cũng không vượt quá 30 lần ngưỡng có dịch. Khi đó khả năng đưa đất nước, địa phương về trạng thái không có dịch sẽ cao.
Ngày 26-4-2021, trong 220 nước và vùng lãnh thổ có lây nhiễm và dịch Covid-19 có tới 135 nước và vùng lãnh thổ (chiếm 61%) có số người đang điều trị/1 triệu dân lớn hơn 30 lần ngưỡng có dịch ở nước của họ, trong đó có 102 nước và vùng lãnh thổ tỷ lệ này gấp 100 lần đến 2.600 lần ngưỡng có dịch. Tức là các nước và vùng lãnh thổ này sẽ phải áp dụng các biện pháp quyết liệt, hiệu quả hơn nữa (kể cả dùng vắc-xin) để có thể kéo mức lây nhiễm xuống dưới ngưỡng có dịch, tức là hết dịch.
Có thể coi đây là Bài học 1, bài học về khống chế tốc độ lây nhiễm và quy mô người nhiễm. Phải làm chậm tốc độ lây nhiễm, không để số người đang điều trị/1 triệu dân vượt ngưỡng có dịch (10 người/1 triệu dân), trong trường hợp xấu nhất không được vượt khả năng của hệ thống cách ly và điều trị của các địa phương và cả nước (kinh nghiệm quốc tế là không quá 30 lần ngưỡng có dịch).
Một đặc điểm chung của các nước và vùng lãnh thổ không có dịch hiện nay là khi họ trải qua các làn sóng lây nhiễm mà đỉnh có thể vượt ngưỡng có dịch nhiều lần, thì họ đều áp dụng các biện pháp kiểm soát dịch, giảm lây lan đủ mạnh, đủ lâu để cường độ lây nhiễm – số người đang điều trị ở bệnh viện trên 1 triệu dân phải giảm xuống dưới ngưỡng có dịch. Khi đó các biện pháp kiểm soát dịch mới được nới lỏng. Vì vậy, nếu một làn sóng lây nhiễm mới xuất hiện thì nó bắt đầu ở mức rất thấp, ở mức dưới ngưỡng có dịch, do đó việc cách ly, chữa trị người bị nhiễm thuận lợi rất nhiều, vì hệ thống y tế không bị quá tải khi làn sóng lây nhiễm mới xuất hiện.
Có thể coi đây là Bài học 2, bài học về mức độ và thời điểm nới lỏng các biện pháp kiểm soát và dập dịch. Khi xảy ra làn sóng lây nhiễm hoặc dịch thì việc thực hiện các biện pháp kiểm soát và giảm lây nhiễm cần thiết phải được duy trì trong thời gian đủ dài để số người đang điều trị/1 triệu dân phải giảm liên tục tới mức dưới ngưỡng có dịch của quốc gia hoặc địa phương.
Lây nhiễm Covid-19 thông qua tiếp xúc gần giữa người với người, do đó muốn kiểm soát lây nhiễm và dịch trong một nước thì phải kiểm soát sự đi lại của người dân các địa phương và giữa các nước. Nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa phòng, chống dịch và bảo đảm cuộc sống bình thường của người dân và phát triển kinh tế, các nước đã thực hiện nhiều giải pháp có thể tham khảo. Kinh nghiệm thứ nhất là xếp hạng rủi ro lây nhiễm từ các nước chung quanh và nước khác: nhiều nước lập danh sách kiểm soát, hạn chế hoặc cấm nhập cảnh trong một thời gian nhất định đối với công dân và phương tiện vận tải của một số nước. Kinh nghiệm thứ hai là công bố các tiêu chí để xếp hạng mức độ lây nhiễm và dịch, đồng thời quy định ứng với các mức độ đó, chính quyền địa phương và người dân phải làm gì để khi chính phủ công bố mức lây nhiễm như vậy mỗi tỉnh hoặc địa phương trong tỉnh phải chủ động thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch cần thiết, không chờ chính phủ phải hướng dẫn cần làm gì và các địa phương chung quanh phải chấp nhận các biện pháp của các tỉnh đó liên quan người và phương tiện của các tỉnh, địa phương khác. Hiện nay ở Việt Nam chưa công bố tiêu chí thế nào là tỉnh có mức độ lây nhiễm cao, trung bình, thấp, một tỉnh có dịch và các biện pháp cần thực hiện ở các mức độ lây nhiễm như vậy. Trong thực tế việc áp dụng các biện pháp phòng dịch và dập dịch ở mức độ cao đều đòi hỏi chi phí lớn và gây thiệt hại cho người dân và nền kinh tế, do đó thường xuyên có xung đột lợi ích ngắn hạn giữa phòng chống dịch và duy trì hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, kết quả phòng, chống dịch ở Trung Quốc, Việt Nam, Mỹ và Ấn Ðộ cho phép rút ra bài học rất quan trọng.
Khi dịch Covid-19 xảy ra tại Vũ Hán (tháng 1 đến tháng 3-2020), Trung Quốc đã áp dụng các biện pháp hết sức nghiêm ngặt: hạn chế rồi cấm ra khỏi nhà, dừng tất cả hoạt động giáo dục, dịch vụ, thương mại thông thường, vui chơi, sản xuất, các gia đình chỉ được cử một người đi chợ vài ngày một lần. Kết quả là sau hai tháng, xét ở quy mô toàn quốc, dịch đã bị dập tắt, từ đó đến nay số người được điều trị/1 triệu dân rất thấp so với ngưỡng có dịch. Số người chết đến nay là 4.636 người, bình quân 0,3 người chết/1 triệu dân, vào loại thấp nhất thế giới. Kinh tế Trung Quốc là nền kinh tế lớn duy nhất của thế giới tăng trưởng 2,3% năm 2020.
Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, có nền khoa học – công nghệ vào loại hiện đại nhất thế giới, GDP/người gấp 6,5 lần của Trung Quốc, về tổng thể đã không thực hiện được triệt để việc đeo khẩu trang, giảm hoạt động đông người, truy vết, cách ly người nhiễm nên đã trở thành nơi có dịch lớn nhất thế giới. Ngày 15-3-2020, khi Trung Quốc hết dịch, Mỹ chỉ có 4.033 người đang điều trị. Nhưng đến ngày 30-4-2021, Mỹ có 6,8 triệu người đang điều trị và 580.337 người chết, gấp hơn 120 lần số người chết vì dịch ở Trung Quốc. Kinh tế Mỹ tăng trưởng âm 3,5% năm 2020.
Việt Nam là nước có dân số gần 100 triệu người, GDP/người khoảng 2.740 USD, chỉ bằng hơn 4% GDP/người của Mỹ (2019). Những biện pháp phòng, chống dịch quyết liệt của Việt Nam đã gây thiệt hại cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, nhưng Việt Nam dù ở ngay sát Trung Quốc, nơi nổ ra đại dịch Covid-19 đầu tiên, đã không xảy ra dịch Covid-19, mặc dù đã có ba làn sóng lây nhiễm, song số người điều trị/1 triệu dân chưa bao giờ đạt 7,5 người, luôn thấp hơn ngưỡng có dịch 10 người/1 triệu dân. Kinh tế Việt Nam năm 2020 tăng trưởng 2,91%. Trong 50 nền kinh tế lớn nhất thế giới, năm 2020 chỉ có bốn nền kinh tế tăng trưởng dương: Trung Quốc (2,3%), Ðài Loan (Trung Quốc) (2,98%), Ai Cập (3,55%) và Việt Nam (2,91%).
Ngày 11-3-2020 khi WHO tuyên bố có đại dịch toàn cầu, thì Ấn Ðộ chỉ có 58 người đang được điều trị, bằng 0,4% ngưỡng có dịch. Chỉ hơn một tháng sau, ngày 19-4-2020, số người đang điều trị là 14.203, vừa vượt ngưỡng có dịch; đến 18-9-2020, dịch đạt đỉnh lần thứ nhất, với 1.014.649 người đang điều trị, gấp 74 lần ngưỡng có dịch. Như vậy, quá trình gia tăng lây nhiễm toàn quốc của làn sóng dịch thứ nhất kéo dài đến 5 tháng. Các nỗ lực của chính phủ Ấn Ðộ, các bang và người dân trong 5 tháng này đã chặn được sự gia tăng lây nhiễm, sau đó số người đang được điều trị giảm dần. Vấn đề đặt ra là quá trình dập dịch này sẽ kéo dài bao lâu, thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng đời sống người dân, ảnh hưởng đến hoạt động chính trị ở Ấn Ðộ thế nào (bầu cử vào quý II-2021). Ngày 16-2-2021, tức là sau 5 tháng từ khi làn sóng dịch thứ nhất đạt đỉnh (18-9-2020) số người đang được điều trị giảm còn 138.254, tức giảm 86% so với đỉnh dịch (1.014.649), số người đang được điều trị chưa bằng 14% lúc cao nhất. Ðây là kết quả rất có ý nghĩa và chính lúc này, chính phủ Ấn Ðộ đã nới lỏng hàng loạt biện pháp chống dịch, trong khi Thủ tướng Ấn Ðộ nhận định, cuộc chiến chống Covid-19 ở Ấn Ðộ đã đến giai đoạn kết thúc. Tuy nhiên thực tế đã hoàn toàn ngược lại. Chỉ trong vòng hai tháng sau đó, Ấn Ðộ bùng phát dịch với mức độ chưa từng có, số người đang được điều trị tăng vọt từ 138.254 người lên 1.679.121 vào ngày 16-4-2021 và sau đó hai tuần lên mức 3.272.256, gấp 240 lần ngưỡng có dịch. Số người chết từ ngày 16-2-2021 đến 30-4-2021 là 55.890 người, nhiều hơn số người chết của hơn bảy tháng đầu năm 2020 (15-1-2020 đến 20-8-2020) là 54.975 người.
Vì sao khi mức độ lây nhiễm cộng đồng, thể hiện qua số người đang được điều trị đã giảm 86% mà vẫn bùng phát dịch khi gỡ bỏ các biện pháp phòng, chống dịch cơ bản? Vấn đề chính là ở chỗ: số người đang được điều trị ngày 16-2-2021 tuy chỉ bằng chưa tới 14% lúc đạt đỉnh dịch (hơn một triệu người ngày 18-9-2020), song nó vẫn gấp hơn 10 lần ngưỡng có dịch (138.254 người đang điều trị so với 13.664 người). Bỏ các biện pháp phòng, chống dịch khi dịch đang còn tuy ở mức không cao cùng với xuất hiện chủng mới của vi-rút Corona tất yếu dẫn đến dịch bùng phát trở lại với mức độ cao hơn trước.
Kể từ khi bắt đầu có dịch, ngày 19-4-2020 đến khi chính phủ gỡ bỏ các biện pháp phòng, chống dịch cơ bản, ngày 16-2-2021, là tròn 10 tháng liên tục. Người dân phải chịu đựng các hạn chế trong cuộc sống, hoạt động kinh tế bị thu hẹp thời gian dài như vậy để lại hậu quả rất nặng nề. Kinh tế Ấn Ðộ năm 2020 tăng trưởng âm 5,7%.
Dưới góc độ nghiên cứu, để rút ra các bài học cần thiết có thể nêu câu hỏi: Nếu Ấn Ðộ không dỡ bỏ các biện pháp phòng, chống dịch cơ bản vào ngày 16-2-2021, mà tiếp tục phòng, chống dịch như trước, thì bao giờ hết dịch, thiệt hại xã hội do phải áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch khắt khe là gì? Không có cơ sở để trả lời chính xác câu hỏi này. Tuy nhiên, kinh nghiệm về các quá trình xã hội và tự nhiên và thực tế diễn biến dịch ở Ấn Ðộ đến ngày 16-2-2021 có thể cho chúng ta một dự báo sơ bộ: Nhiều khả năng dịch sẽ kết thúc sau 7,5 tháng từ ngày đạt đỉnh ngày 18-9-2020, nghĩa là khoảng đầu tháng 5-2021. Tức là, nếu kéo dài thời gian phòng, chống dịch thêm ba tháng sau ngày 16-2-2021 thì rất nhiều khả năng dịch sẽ kết thúc. Rõ ràng, việc phòng, chống dịch thêm ba tháng này sẽ gây thiệt hại cho người dân, nền kinh tế, đảo lộn lịch bầu cử, song các thiệt hại này sẽ là rất nhỏ so với những thiệt hại do bùng phát dịch hiện nay đã và sẽ gây ra trong nhiều tháng tới.
Có thể coi đây là Bài học 3, bài học về phương châm phòng dịch: phòng, chống dịch là ưu tiên số một và làm sao ít ảnh hưởng tiêu cực nhất đến kinh tế – xã hội. Khi giải quyết mâu thuẫn giữa phòng, chống dịch và nhu cầu bảo đảm cuộc sống bình thường của người dân, phát triển kinh tế và các hoạt động chính trị, phải ưu tiên hàng đầu là không để xảy ra dịch, khi có dịch phải kiểm soát lây nhiễm và dập dịch nhanh nhất, bằng các biện pháp đồng bộ, có thể khác nhau giữa các địa bàn và trong các giai đoạn khác nhau, phù hợp quy luật phát triển của dịch và đặc điểm cụ thể của mỗi địa phương, để ít ảnh hưởng tiêu cực nhất đến đời sống người dân, phát triển kinh tế và hoạt động chính trị.
III. Một số việc Việt Nam nên xem xét làm ngay
Việt Nam đang bước vào làn sóng lây nhiễm thứ tư, từ ngày 7-4-2021 đến nay. Ngày 13-5, số người đang điều trị/1 triệu dân của Việt Nam đã vượt mốc 970 người (ngưỡng có dịch của Việt Nam với dân số 97 triệu người). Từ kinh nghiệm, bài học quốc tế và TP Hồ Chí Minh, tôi thấy một số việc sau cần được xem xét để làm ngay:
1. Huy động toàn bộ lực lượng, quyết tâm chính trị để ngăn chặn lây nhiễm Covid-19, không để các tỉnh, thành phố trở thành tỉnh, thành phố có dịch. Ðây chính là nhiệm vụ tại chỗ của mỗi địa phương. Việc phòng ngừa, phát hiện, truy vết, cách ly phải làm quyết liệt để các tỉnh, thành phố không vượt ngưỡng này. Theo kinh nghiệm của TP Hồ Chí Minh, một người dương tính tại chỗ sẽ đòi hỏi cách ly khoảng 280 người F1, F2. Như vậy có thể ước lượng (do chưa có thống kê của Bộ Y tế), ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Ðà Nẵng, Cần Thơ, tỷ lệ cách ly khoảng 200 người/1 F0, các tỉnh đồng bằng khoảng 100 người/1 F0, các tỉnh miền núi khoảng 50 người/1 F0, để làm cơ sở chủ động xây dựng các cơ sở cách ly.
2. Trong trường hợp một số tỉnh, thành phố không ngăn được lây lan, trở thành có dịch, thì phải đặt mục tiêu khống chế tốc độ lây lan sao cho tổng số người đang được điều trị và cách ly không vượt quá khả năng của hệ thống y tế và hệ thống cách ly, trong trường hợp xấu nhất cũng không vượt quá 30 lần ngưỡng có dịch của địa phương. Như vậy, mới có cơ hội đưa địa phương trở lại trạng thái không có dịch sau hai, ba tháng.
3. Các địa phương phải có đề án liên kết bảo đảm cách ly hiệu quả. Hiện nay, việc tổ chức cách ly đã bộc lộ nhiều hạn chế. Vì vậy, Bộ Y tế cần có chỉ đạo các địa phương kết hợp các lực lượng: Y tế, quân đội, công an, các đơn vị cách ly có đề án liên kết bảo đảm yêu cầu cách ly được thực hiện nghiêm ngặt nhất là khi quy mô cách ly lớn.
4. Ngăn chặn hiệu quả xâm nhập trái phép. Xâm nhập trái phép đang là nguy cơ mang lây nhiễm vào Việt Nam lớn nhất. Cần làm rõ động cơ người xâm nhập trái phép. Nếu người Việt Nam ở nước ngoài (Lào, Cam-pu-chia…) về nước vì an toàn tính mạng của họ vì đang ở nơi có dịch, thì cần công khai thời gian, quy trình, địa điểm đón và cách ly họ, làm cho việc họ về nước có chủ trương, tổ chức và kiểm soát được phù hợp tình hình ở Việt Nam. Còn công dân nước ngoài xâm nhập trái phép vào Việt Nam phải xử lý thật nghiêm để triệt tiêu động lực xâm nhập trái phép của các đối tượng này.
5. Do lây nhiễm trong nước đang ở giai đoạn bùng phát thành dịch trong tháng 5-2021, nên đề nghị tạm dừng cho người nước ngoài từ các nước có dịch nặng vào Việt Nam trong vòng bốn tuần tới, trừ các trường hợp thật đặc biệt.
6. Bộ Y tế cần có hướng dẫn các địa phương cần làm gì khi chưa có hoặc không còn người lây nhiễm cộng đồng; khi có lây nhiễm cộng đồng nhưng chưa có dịch; khi có dịch, ở mức rất nhẹ, không quá 10 lần ngưỡng có dịch; khi có dịch nhẹ với tỷ lệ người đang điều trị/1 triệu dân gấp 10 lần, 20 lần ngưỡng có dịch.
7. Ðể các địa phương chủ động phòng chống dịch hiệu quả, phải thực hiện phương châm năm tại chỗ, trong đó tại chỗ đầu tiên là: Xác định nhiệm vụ tại chỗ. Ứng với bốn mức lây nhiễm và có dịch nêu trên, mỗi cấp chính quyền, mỗi cơ quan đơn vị, mỗi ngành (công an, bộ đội, y tế) và cấp ủy căn cứ hướng dẫn của Bộ Y tế cần tự xác định nhiệm vụ của mình là gì, từ đó triển khai bốn tại chỗ khác (chỉ huy tại chỗ; lực lượng chuyên môn (con người) tại chỗ; thiết bị, vật tư, phương tiện tại chỗ; hậu cần tại chỗ).
8. Chuẩn bị khả năng một số tỉnh, thành phố bầu cử trong trạng thái có dịch. Ðến ngày 17-5, 16 tỉnh, thành phố có trạng thái lây nhiễm Covid-19 vượt ngưỡng có dịch (10 người đang điều trị/1 triệu dân). Ðến ngày bầu cử 23-5, có thể sẽ có thêm một số tỉnh cũng thuộc nhóm này. Trên cơ sở xem xét mức độ lây nhiễm ở từng quận, huyện mà mỗi tỉnh, thành phố xác định quận nào, huyện nào đã vượt ngưỡng có dịch để từ đó tổ chức bầu cử cho phù hợp, bảo đảm an toàn dịch và bầu cử đúng quy định.
9. Cần thay đổi cách truyền thông về tiêm vắc-xin, tránh gây ngộ nhận, chủ quan trong phòng, chống dịch ở một bộ phận nhân dân vì cho rằng việc tiêm vắc-xin trong vài tháng tới sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ lây nhiễm Covid-19 ở Việt Nam. Việc tiêm vắc-xin ở Việt Nam đến nay đạt khoảng 1% dân số đã tiêm một mũi, trong khi để đạt miễn dịch cộng đồng phải tiêm hai mũi cho khoảng 70% dân số. Tức là chúng ta cần khoảng 135 triệu liều vắc-xin. Hiện nay chưa thấy khả năng Việt Nam nhận được khoảng 100 triệu liều vắc-xin trong bốn tháng tới. Bộ Y tế cần công bố lịch tiêm lần 1 và lần 2 đồng thời để các cơ quan và người được tiêm biết.
Tình hình lây nhiễm và dịch ở Việt Nam hiện nay cao hơn nhiều so với ba làn sóng lây nhiễm trước. Thực tế chúng ta đã bước vào trạng thái một nước có dịch Covid-19, song còn ở mức rất nhẹ. Tỷ lệ người đang điều trị/1 triệu dân chỉ khoảng 17 người, trong khi bình quân thế giới hiện là 2.156 người, gấp 126 lần của Việt Nam. Với kinh nghiệm phòng, chống dịch thành công trong hơn một năm qua, tham khảo bài học và kinh nghiệm các nước, khắc phục các hạn chế đã bộc lộ, chúng ta hoàn toàn có thể khống chế thành công làn sóng lây nhiễm thứ tư, đưa đất nước trở về trạng thái bình thường mới, không có dịch, tuy còn lây nhiễm cục bộ, quy mô nhỏ. Ba địa phương có dịch nặng nhất hiện nay là Ðà Nẵng, Bắc Giang, Bắc Ninh. Nếu tại ba địa phương này việc chống dịch được triển khai quyết liệt, có sự hỗ trợ hiệu quả của trung ương và các địa phương, bám sát 3 bài học và 2 kinh nghiệm phòng, chống dịch thành công của 23 nước không có dịch trên thế giới thì sau khoảng hai tháng nữa, ba địa phương có thể hết dịch. Ðể việc phòng, chống dịch Covid-19 ở nước ta chuyển sang giai đoạn mới, trên nền tảng tiêm vắc-xin cho đa số người dân, Việt Nam cần đẩy nhanh việc nghiên cứu, thử nghiệm và sản xuất vắc-xin trong nước, đồng thời tận dụng các cơ hội để mua vắc-xin từ các nguồn hợp pháp trên thế giới (Nhân dân, trang 5).
Phan Hạnh tổng hợp