Điểm báo ngày 22/11/2019

(CDC Hà Nam)
Yêu cầu Bộ Y tế nghiên cứu phản ánh về giá giường bệnh; Trầm cảm có liên quan với nhiều bệnh lý; Luật Dân số sẽ chuyển tinh thần của Nghị quyết 21 thành hành động…

 

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin: Bước chuyển mình đột phá của ngành y tế

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe ở Việt Nam đã có bước phát triển quan trọng, đặt nền móng xây dựng nền y tế thông minh với 3 trụ cột chính là phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe thông minh, khám chữa bệnh thông minh và quản trị y tế thông minh, người dân bước đầu được hưởng lợi từ các thành tựu công nghệ thông tin trong hoạt động y tế.

Nhiều BV ứng dụng bệnh án điện tử, bệnh viện không giấy tờ

Theo Bộ Y tê,́ sự chuyển đổi về nhận thức và cả hệ thống chính trị vào cuộc rất quyết liệt đã làm nên kết quả ban đầu trong việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong lĩnh vực y tế.

Năm 2019, Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt Đề án phát triển CNTT y tế thông minh giai đoạn 2019 -2025; Tiếp tục triển khai Đề án thí điểm hệ thống lưu trữ và truyền tải hình ảnh (PACS) không in phim tại 15 bệnh viện, Hệ thống quản lý thông tin tiêm chủng Quốc gia được triển khai đến tất cả các điểm tiêm chủng trên toàn quốc. Hệ thống quản lý thông tin bệnh truyền nhiễm bằng phần mềm tại 1.761 xã, phường, thị trấn của 33 tỉnh, thành phố.

Ngành y tế cũng phát triển hệ thống tư vấn khám, chữa bệnh từ xa, bệnh án điện tử và tích cực thực hiện Đề án ứng dụng CNTT tại trạm y tế xã, phường giai đoạn 2018-2020, hoàn thiện phần mềm hồ sơ sức khỏe điện tử, hiện đã được áp dụng tại trên 15 tỉnh, thành phố. Mới đây, Bộ trưởng Bộ Y tế cũng đã ban hành Quyết định 5349 phê duyệt Kế hoạch triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử.

Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hiện đại hóa hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, Bộ Y tế đã xây dựng phần mềm thống kê y tế điện tử và triển khai ở 13 tỉnh; phần mềm cổng thông tin y tế và một số hệ thống thông tin khác làm cơ sở hình thành y tế số; Duy trì ổn định hoạt động của 51 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4, 100% các dịch vụ hành chính công được cung cấp ở mức độ 2, triển khai cơ chế một cửa quốc gia.

Với sự quan tâm, chỉ đạo, đầu tư của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp của các bộ, ngành và địa phương, với sự nỗ lực của toàn ngành, việc ứng dụng CNTT y tế ở các đơn vị, địa phương đã có bước phát triển mạnh mẽ. Bộ Y tế đã ban hành bộ mã danh mục dùng chung áp dụng trong quản lý khám, chữa bệnh và thanh toán BHYT (Phiên bản số 6) sử dụng tại trên 12.000 cơ sở y tế. Bộ cũng hướng dẫn các cơ sở khám, chữa bệnh trích chuyển dữ liệu lên Cổng Tiếp nhận dữ liệu thuộc Hệ thống thông tin giám định BHYT của BHXH Việt Nam, triển khai đào tạo cho nhân viên các cơ sở y tế. Từ đó nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ BHYT, quản lý cung ứng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh. Đến nay, 100% các bệnh viện trên toàn quốc đã triển khai hệ thống thông tin bệnh viện, CNTT đã được ứng dụng rộng rãi trong khám, chữa bệnh, đón tiếp người bệnh, bước đầu một số bệnh viện đã ứng dụng bệnh án điện tử, bệnh viện không giấy tờ, bệnh viện không phim…

Gần 100% các cơ sở khám, chữa bệnh kết nối liên thông với BHXH

Đánh giá về thành tựu 3 năm triển khai ứng dụng CNTT trong quản lý khám, chữa bệnh và thanh toán BHYT và Chỉ thị về hành vi chống lạm dụng, trục lợi quỹ BHYT, ông Trần Quý Tường, Cục trưởng Cục CNTT, Bộ Y tế cho biết, đến nay 100% bệnh viện đã ứng dụng CNTT trong khám chữa bệnh và triển khai phần mềm quản lý thông tin bệnh viện; 92,3% bệnh viện triển khai ứng dụng phần mềm quản lý thông tin xét nghiệm; 86,2% bệnh viện triển khai phần mềm quản lý điều hành như văn bản điện tử, thư điện tử.

Phần mềm quản lý khám chữa bệnh BHYT luôn cập nhật các văn bản hướng dẫn hiện hành, văn bản mới về chi phí khám chữa bệnh, danh mục kỹ thuật được áp dụng BHYT, giúp nhân viên y tế dễ dàng trong việc chỉ định y khoa, hạn chế rủi ro do bị xuất toán từ BHYT. Đã có 99,5% các cơ sở khám chữa bệnh tại 63 tỉnh/thành phố trên cả nước khám chữa bệnh BHYT đã kết nối liên thông với hệ thống giám định của BHXH Việt Nam.

Việc liên thông dữ liệu khám chữa bệnh BHYT với BHXH cho phép đánh giá tình hình sử dụng dịch vụ y tế trên toàn quốc và kiểm soát việc cung ứng dịch vụ y tế cho người bệnh, bảo đảm quỹ của người tham gia BHYT được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Qua quản lý trên hệ thống giám định, các giám định viên nắm được các loại thuốc, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, vật tư y tế và dịch vụ kỹ thuật các cơ sở KCB đã sử dụng cho người bệnh BHYT.

Tại Bệnh viện K, GS.TS. Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K cho biết, việc ứng dụng CNTT trong khám chữa bệnh BHYT đem lại lợi ích lớn. Với việc cập nhật bộ mã danh mục dùng chung phục vụ cho việc quản lý khám chữa bệnh và thanh toán BHYT; Thực hiện việc gửi dữ liệu điện tử khám chữa bệnh và dữ liệu đề nghị thanh toán BHYT theo Thông tư 48/2017/TT-BYT; Triển khai phần mềm quản lý bệnh viện, phần mềm đồng bộ hệ thống quản lý chẩn đoán hình ảnh, hệ thống xét nghiệm tại 3 cơ sở để thanh toán BHYT… Bệnh viện K đã tiến tới gọn nhẹ thủ tục hành chính, giảm thời gian chờ đợi và thanh toán viện phí, lấy thuốc BHYT nhanh gọn. Đổi mới quy trình khám chữa bệnh BHYT giúp cán bộ, nhân viên y tế của bệnh viện giảm tải áp lực hơn (Sức khỏe & Đời sống, trang 3).

 

Thông tin thêm về 3 vụ tai biến sản khoa tại Bệnh viện  Phụ sản Đà Nẵng:Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn tìm hiểu về nguyên nhân và chỉ đạo công tác xử lý

Báo CAND đã thông tin về 3 vụ tai biến sản khoa liên tiếp xảy ra tại Bệnh viện Phụ nữ TP Đà Nẵng nghi do chất lượng thuốc gây tê tủy sống, trưa 21-11, đoàn công tác của Bộ Y tế do Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn dẫn đầu đã vào Đà Nẵng để tìm hiểu nguyên nhân và chỉ đạo công tác xử lý.

Ngay khi xuống sân bay, đoàn đã cùng lãnh đạo Sở Y tế TP đến viếng và thắp hương tại nhà của 2 sản phụ tử vong do sự cố sản khoa xảy ra tại Bệnh viện Phụ nữ TP Đà Nẵng là chị V.T.N.S. (33 tuổi, ở quận Cẩm Lệ) và chị L.H.P.T (32 tuổi, ở quận Hải Châu).

Tiếp đó, Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn và đoàn công tác Bộ Y tế cũng đến Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng để thăm và kiểm tra, đánh giá bệnh trạng của chị N.T.H, người duy nhất còn sống trong 3 sản phụ bị tai biến sản khoa. Chị H đang được các bác sĩ Khoa Hồi sức tích cực – chống độc nỗ lực điều trị với thuốc và các thiết bị y tế hiện đại nhất. Theo bác sĩ Lê Đức Nhân, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng, bệnh nhân H đang dần hồi tỉnh và đã qua cơn nguy kịch.

Nói về 3 sự cố sản khoa nghiêm trọng vừa xảy ra, Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn cho rằng, để xác định chính xác nguyên nhân cần phân tích nhiều yếu tố, trong đó có xem xét về chất lượng thuốc, quy trình và phản ứng sau tai biến.

Theo Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn, hiện tại Bộ Y tế chưa có khuyến cáo chính thức về thuốc gây tê Bupivacaine. “Có một số yếu tố nghi ngờ tai biến sản khoa do thuốc gây tê, nhưng hiện tại vẫn chưa thể kết luận. Hiện 120 ống thuốc Bupivacaine chưa sử dụng tại Bệnh viện Phụ nữ TP Đà Nẵng đã được niêm phong và gửi mẫu cho Trung tâm Quốc gia về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc. Trung tâm này sẽ kiểm tra, đánh giá và sẽ có khuyến cáo phù hợp.

Bộ Y tế cũng đã có chỉ đạo sớm lập hội đồng chuyên môn để làm rõ nguyên nhân các vụ tai biến này”, Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn cho biết. Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn, thuốc gây tê Bupivacaine hiện đang được nhiều cơ sở y tế trên cả nước sử dụng với số lượng lớn. Các bệnh viện lớn như Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Hùng Vương, Sản C… đều sử dụng loại thuốc này với số lượng lớn vẫn rất tốt. Nếu muốn quy kết do thuốc thì phải chờ kết luận chính thức.

Lãnh đạo Công ty CP Dược phẩm Trung ương CPC I tại Đà Nẵng cho hay, đơn vị đã phân phối 12.590 ống thuốc gây tê Bupivacaine WPW Spinal 0,5% Heavy thuộc lô 01DB0619 cho hàng loạt bệnh viện và cơ sở y tế lớn nhỏ trên địa bàn Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi trong khoảng thời gian từ ngày 26-9 đến 14-11-2019. Và các liều thuốc gây tê tủy sống bị nghi liên quan đến 3 vụ tai biến sản khoa phụ tại Bệnh viện Phụ nữ TP Đà Nẵng cũng nằm trong lô thuốc này…

Liên quan đến vụ việc, Bệnh viện Phụ nữ TP Đà Nẵng đã yêu cầu đơn vị cung ứng cung cấp chất chuẩn. Dựa vào chất chuẩn mới đánh giá được có tạp chất hay không. Nhưng để có kết quả phân tích cần mất rất nhiều thời gian, lên đến khoảng 1,5 tháng.

Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn cho rằng, khi dùng thuốc mà xảy ra phản ứng trong đó nặng nhất là phản vệ, sau đó tới ngộ độc thuốc và thuốc không an toàn, cách sử dụng thuốc không đúng kỹ thuật. “Nếu muốn kết luận phải phân tích hồ sơ, có hội đồng chuyên môn phân tích hồ sơ bệnh án. Chúng tôi sẽ về tổng hợp các tài liệu và đưa ra phản ứng kịp thời nhất”, Thứ trưởng Sơn khẳng định.

Trao đổi với phóng viên Báo CAND, lãnh đạo Công an TP Đà Nẵng cho biết, đang làm việc với Thanh tra Sở Y tế TP Đà Nẵng và các đơn vị liên quan để làm rõ một số vấn đề liên quan đến việc nhập khẩu, cung ứng và sử dụng thuốc. Công an TP cũng vận động, đề nghị khám nghiệm tử thi đối với sản phụ V.T.N.S (32 tuổi, trú quận Cẩm Lệ) để phục vụ công tác điều tra nguyên nhân tử vong, nhưng gia đình chị S chưa đồng ý.

“Dù là sự cố xảy ra do chất lượng thuốc hay do lỗi về quy trình, cũng cần tạm dừng sử dụng loại thuốc này trong thời gian làm rõ nguyên nhân các vụ tai biến để ngăn ngừa các sự cố tương tự có thể xảy ra”, đại diện lãnh đạo Công an TP Đà Nẵng đề nghị. (Công an Nhân dân, trang 2).

Cùng chủ đề Báo Sài Gòn giải phóng, trang 7: “Bộ Y tế: Sự cố y khoa tại Đà Nẵng là nghiêm trọng”; Báo Lao động, trang7: “Tai biến sản khoa tại Đà Nẵng: Chưa đủ cơ sở ngưng thuốc gây tê tủy sống”.

 

Chỉ 0,4% người bệnh thừa nhận “lót tay”  cho bác sĩ tuyến huyện

Báo cáo kết quả công tác khám chữa bệnh 10 tháng năm 2019 tại hội nghị vừa diễn ra ngày 18-11, Cục Quản lý khám, chữa bệnh – Bộ Y tế cho biết, từ đầu năm đến nay, Bộ tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh, hài lòng của người dân.

Cùng đó, Bộ Y tế cũng chỉ đạo tích cực triển khai khảo sát hài lòng người bệnh và nhân viên y tế. Theo Báo cáo Chỉ số PAPI công bố năm 2019 cho thấy, chỉ số hài lòng của người dân về y tế công lập của Việt Nam đã tăng từ 1,92 năm 2017 lên 1,96 năm 2018 (thang điểm 2,5).

Đặc biệt, chỉ 0,4% số người sử dụng dịch vụ y tế của bệnh viện công tuyến huyện phải lót tay nhân viên y tế để được chăm sóc tốt hơn (năm 2013 là 20%, năm 2016 là 17%, năm 2017 là 9%).

Khảo sát của Tổ chức Sáng kiến Việt Nam (Oxfam) cũng cho thấy, chỉ số hài lòng người bệnh nội trú năm 2018 đạt 80,8% (năm 2017 là 79,6%).

Còn qua phần mềm trực tuyến khảo sát hài lòng người bệnh và nhân viên y tế, đã có tổng số trên 3,4 triệu lượt người được các bệnh viện khảo sát đóng góp ý kiến. Tỷ lệ hài lòng người bệnh nội trú do các bệnh viện tự khảo sát đến nay đạt 80,6%. (An ninh Thủ đô, trang 9).

 

Trầm cảm có liên quan với nhiều bệnh lý

Trầm cảm là một bệnh lý đang có xu hướng gia tăng nhanh ở nhiều nước trên thế giới, có mối liên quan đến nhiều bệnh lý khác nhau. Đặc biệt, trầm cảm có mối liên quan chặt chẽ với vấn đề cô đơn, cô lập, tự tử và đang là vấn đề nóng ở nhiều quốc gia hiện nay.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh trầm cảm cướp đi mỗi năm trung bình 850.000 mạng người. Dự tính đến năm 2020 trầm cảm sẽ là căn bệnh đứng thứ 2 trong số những căn bệnh phổ biến toàn cầu với 121 triệu người mắc. Nhưng chỉ khoảng 25 % trong số đó được điều trị kịp thời và đúng phương pháp. Điều đáng lưu ý là có mối liên quan giữa trầm cảm và một số bệnh lý cơ thể.

Trầm cảm và bệnh mạch vành

Trầm cảm đã được tìm thấy là một yếu tố nguy cơ trong các nguyên nhân của bệnh mạch vành. Xơ vữa động mạch, các cơ chế sinh lý bệnh tiềm ẩn của bệnh mạch vành, đã hình thành từ nhiều năm trước khi xuất hiện các triệu chứng tim mạch. Vì vậy, xơ vữa động mạch có thể tạo điều kiện cho các triệu chứng trầm cảm hình thành, thậm chí trước khi các triệu chứng lâm sàng bệnh mạch vành xuất hiện. Nghiên cứu các triệu chứng trầm cảm liên quan đến stress do công việc và stress do quan hệ hôn nhân ở phụ nữ có và không có bệnh động mạch vành, kết quả cho thấy ở phụ nữ có stress trong hôn nhân có liên quan với các triệu chứng trầm cảm và phát sinh bệnh mạch vành. Vì vậy, có thể trầm cảm có một vai trò trung gian đối với các stress trong hôn nhân mà kết quả cuối cùng là bệnh mạch vành.

Trầm cảm và suy tim

Trầm cảm là một yếu tố nguy cơ gây bệnh và tử vong ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy trầm cảm là một rối loạn quan trọng dẫn đến sự gia tăng các bệnh tim mạch. Trầm cảm là phổ biến ở bệnh nhân bệnh tim mạch; có nhiều bằng chứng cho rằng tỷ lệ trầm cảm cao hơn 20% ở những bệnh nhân bị suy tim so với những người khỏe mạnh. Tỷ lệ trầm cảm trên bệnh nhân suy tim theo nhiều nghiên cứu khoảng từ 35-38%. Số liệu thống kê cho thấy nguy cơ mắc bệnh trầm cảm ở bệnh nhân suy tim gấp 4-5 lần so với cộng đồng. Ở bệnh nhân suy tim, trầm cảm gắn liền với tình trạng sức khỏe kém, tần suất nhập viện cao, tỷ lệ tử vong cao. Trầm cảm thường gặp ở những bệnh nhân trên 60 tuổi và có suy tim nặng. Bên cạnh đó người ta cũng thấy trầm cảm chiếm tỷ lệ cao ở những bệnh nhân suy tim cấy máy phá rung (ICD) so với nhóm bệnh nhân còn lại. Một nghiên cứu quan sát trên những bệnh nhân nhập viện trên 70 tuổi, tỉ lệ tái nhập viện là 67% ở nhóm bệnh nhân suy tim có trầm cảm nhưng chỉ 44% ở nhóm bệnh nhân suy tim không có trầm cảm. Bệnh nhân suy tim kèm trầm cảm tỷ lệ tử vong là 21%, so với 15% ở nhóm suy tim không kèm trầm cảm.

Trầm cảm và rối loạn nhịp tim

Mối quan hệ giữa các yếu tố hành vi và bệnh sinh rối loạn nhịp tim đã được đề cập. Ba tình trạng thường gặp đóng góp cho sự xuất hiện của rối loạn nhịp tim: sự bất ổn định điện cơ tim, thường do bệnh động mạch vành; biến cố phát sinh cấp tính, thường liên quan đến căng thẳng thần kinh; và trạng thái tâm lý mạn tính, phổ biến và dữ dội, thường bao gồm cả trầm cảm và tuyệt vọng. Hệ thống thần kinh tự động đóng một vai trò quan trọng trong sự xuất hiện của rối loạn nhịp tim và là cơ sở lý giải sự tác động của căng thẳng thần kinh và trầm cảm lên sự cân bằng thần kinh tự động tim. Ngày càng có các bằng chứng cho thấy những bệnh nhân có những thay đổi lớn nhất trong việc điều hòa thần kinh tim với giảm trương lực phó giao cảm đi đôi với tăng hoạt động giao cảm có nguy cơ lớn nhất đối với  hình thành loạn nhịp thất gây tử vong.

Trầm cảm và tăng huyết áp

Một nghiên cứu phân tích mối liên quan giữa trầm cảm và tăng huyết áp, tiến hành trên 22.367 người tham gia với một theo dõi trung bình thời gian 9,6 năm. Nghiên cứu củng cố rằng trầm cảm có thể là một yếu tố nguy cơ độc lập của tăng huyết áp. Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra huyết áp và hồ sơ y tế của các đối tượng từ 7 đến 16 năm sau đó, và phát hiện một xu hướng đáng chú ý: Những người mắc hoặc trầm cảm nặng hoặc lo lắng khi bắt đầu cuộc nghiên cứu tăng 2-3 lần mắc bệnh tăng huyết áp so với những người còn lại. Trầm cảm và lo âu thường dẫn đến hút thuốc lá, uống rượu quá mức, tăng cân, rối loạn hành vi làm thúc đẩy tăng huyết áp và bệnh tim.

Trầm cảm và hội chứng buồng trứng đa nang ở phụ nữ

Nghiên cứu cũng cho thấy có tới 40% phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) gặp phải các triệu chứng trầm cảm. Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí chuyên ngành Nội tiết Thần kinh và Tâm thần  Psychoneuroendocrinology đã công bố tỷ lệ tự sát tăng gấp 7 lần ở phụ nữ có PCOS so với những phụ nữ không có PCOS.

Có rất nhiều lý do giải thích tại sao phụ nữ bị PCOS có tỷ lệ trầm cảm cao. Thứ nhất, có thể là do sự mất cân bằng liên quan đến hormon giới tính nữ hoặc chất nội tiết insulin. Việc phải đối mặt với nhiều bệnh lý đi kèm và những biến chứng nặng hơn hoặc xấu đi của PCOS như tiền đái tháo đường, tiểu đường type 2, hội chứng chuyển hóa và bệnh tim mạch cũng là nguyên nhân của trầm cảm. Nồng độ cao hơn của chất nội tiết androgen – là một nội tiết tố nam có thể góp phần làm tăng tỷ lệ rối loạn tâm trạng ở phụ nữ bị PCOS. Phụ nữ mắc PCOS thường phải đối mặt với vô sinh, tăng cân, các triệu chứng da liễu như mụn trứng cá, rụng tóc, tăng trưởng tóc dư thừa; tất cả đều tác động xấu lên sức khỏe thể chất và tinh thần của phụ nữ mắc PCOS. Vì vậy, có nhiều khía cạnh của PCOS có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát và có thể xấu đi theo thời gian, ngay cả khi phụ nữ mắc PCOS đã có những nỗ lực tốt nhất nhằm đạt một lối sống lành mạnh. (Sức khỏe & Đời sống, trang 5).

 

Luật Dân số sẽ chuyển tinh thần của Nghị quyết 21 thành hành động

Các chuyên gia nhận định, nếu xây dựng và ban hành được Luật Dân số, đáp ứng được những nhu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài của cuộc sống, lấp đầy những “khoảng trống” pháp luật liên quan đến các lĩnh vực quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số thì Luật Dân số sẽ có ý nghĩa lớn và mang lại lợi ích cho mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng và toàn xã hội.

Bối cảnh công tác dân số có nhiều thay đổi

Trong những năm qua, công tác DS-KHHGĐ nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt; tuổi thọ trung bình tăng nhanh, tuy nhiên, tất cả vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thực tế cho thấy, công tác dân số đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Theo ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình, Ủy viên Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, thách thức lớn nhất và khó giải quyết nhất của công tác dân số hiện nay là tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Nhiều tỉnh/thành, chênh lệch giới tính ngày càng lan rộng, ở mức 120 bé trai/100 bé gái. Đặc biệt, càng ở đô thị, việc khắc phục tình trạng này càng khó khăn vì tâm lý muốn có con trai để “nối dõi tông đường” hay làm trụ cột trong gia đình đã tồn tại ăn sâu vào tiềm thức của người dân.

Bên cạnh đó, nước ta cũng đang phải đối mặt với sự mất cân bằng dân số giữa các vùng. Những nơi càng phát triển thì dân di cư càng đông, ngược lại, ở những vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa dân cư thường thưa thớt, cuộc sống gặp nhiều khó khăn.

Ngoài ra, thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” với quá trình già hóa dân số ở nước ta diễn ra gần như cùng lúc. Do đó, giai đoạn “dân số vàng” của Việt Nam ngắn hơn nhiều so với các nước khác, chỉ khoảng 17 năm. Hơn nữa, “dân số vàng” thực tế mới chỉ là “vàng” về số lượng chứ chưa xét đến chất lượng. Trong khi đó, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hoá dân số nhanh nhất thế giới. Nếu không có những biện pháp thích ứng kịp thời, già hóa dân số sẽ tạo ra tác động rất lớn đến đời sống kinh tế – xã hội; lao động việc làm; chăm sóc y tế; an sinh xã hội và sự dịch chuyển các dòng di cư…

Một thách thức khác được ông Nguyễn Ngọc Phương chỉ ra là mô hình tổ chức, bộ máy làm công tác dân số, kinh phí cho công tác dân số từ ngân sách của Trung ương bị giảm mạnh. Thậm chí, năm 2018 chỉ còn 289 tỷ đồng, tức là chỉ bằng gần 30% so với năm 2012. Kinh phí cấp rất chậm, nguồn tài trợ quốc tế và huy động nguồn lực xã hội cho công tác này gần như không đáng kể trong khi nhiệm vụ ngày càng nhiều. Mặt khác, một số cấp ủy, chính quyền còn xem nhẹ công tác DS-KHHGĐ, chưa nhận thức đúng, đầy đủ về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp, tầm quan trọng, ý nghĩa của công tác Dân số và Phát triển; lãnh đạo, chỉ đạo chưa quyết liệt, chưa hiệu quả. Tư tưởng muốn có nhiều con, “trọng nam khinh nữ” vẫn còn trong một bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên.

Nhiều quy định của Pháp lệnh Dân số không còn phù hợp

Pháp lệnh Dân số đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 9/1/2003, Chủ tịch nước công bố ngày 22/1/2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2003. Tiếp đó, ngày 5/1/2009, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 Pháp lệnh Dân số, được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XII thông qua ngày 27/12/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/2/2009. Đây là văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước trong lĩnh vực Dân số tính đến thời điểm hiện tại.

Theo các nhà quản lý và chuyên gia, kể từ khi có hiệu lực thi hành, Pháp lệnh Dân số đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công các mục tiêu, chỉ tiêu hàng năm và dài hạn về DS-KHHGĐ, nâng cao trách nhiệm của công dân, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong việc kiểm soát sinh sản, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước về dân số bằng pháp luật.

Qua hơn 10 năm thực hiện, trong bối cảnh kinh tế – xã hội và các chỉ báo về nhân khẩu học có nhiều thay đổi, một số vấn đề dân số mới phát sinh nên Pháp lệnh Dân số đã bộc lộ một số hạn chế và công tác quản lý dân số vẫn còn vướng phải một số bất cập cần sớm khắc phục. Chẳng hạn, một số quy định chưa bao quát được hết các nhóm đối tượng trong xã hội (đối tượng ưu tiên; vùng miền khó khăn; người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam; di cư quốc tế…); chưa thật phù hợp với thực tiễn chuyển đổi nhân khẩu học trước mắt cũng như lâu dài đối với Việt Nam (đô thị hóa; di cư trong nước và quốc tế).

Bên cạnh đó, nhiều vấn đề dân số mới xuất hiện, nếu không được giải quyết kịp thời sẽ gây ra những hệ lụy khó lường cả về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và cả đời sống kinh tế – xã hội của đất nước. Do đó, theo các nhà nhân khẩu học, cần xây dựng Luật Dân số thay thế cho Pháp lệnh Dân số nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại của Pháp lệnh, giải quyết những vấn đề mới phát sinh về công tác dân số trong tình hình mới.

Sớm ban hành Luật Dân số, tăng cường sự lãnh đạo các cấp

Nhấn mạnh về tầm quan trọng của Luật Dân số trong bối cảnh công tác dân số hiện nay, ông Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho biết: Muốn chuyển biến tinh thần của Nghị quyết 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới thành hành động, chuyển biến nhận thức của các tổ chức Đảng trong từng cơ sở thì cần sớm phải sửa đổi chính sách, trước mắt là phải ban hành được Luật Dân số.

Theo ông Bùi Sỹ Lợi, nếu không chăm lo công tác dân số, chúng ta sẽ phải chịu gánh nặng về cơ cấu dân số, chất lượng dân số trong tương lai. Bởi dân số là một trong ba vấn đề của quá trình sản xuất. Lao động, công cụ lao động, tư liệu lao động quyết định yếu tố phát triển sản xuất nhưng ở nước ta, nhân lực chất lượng thấp dẫn đến năng suất lao động, tốc độ tăng trưởng bị ảnh hưởng.

Bên cạnh việc sớm ban hành Luật Dân số, theo ông Bùi Sỹ Lợi, phải coi nâng cao chất lượng dân số như vấn đề hết sức bức bách. Muốn vậy, công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Chính sách dân số phải bảo đảm cân bằng, hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của mọi người dân; giữa việc tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi với thực thi nghiêm kỷ cương pháp luật; giữa việc mở rộng, ứng dụng các kỹ thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.

Để làm được điều này, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề của Quốc hội cho rằng, cần tập trung vào nhiều giải pháp, trong đó quan trọng nhất là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng theo đúng tinh thần Nghị quyết 21 của Trung ương. Đây là tinh thần căn cốt. Bên cạnh đó, áp dụng các giải pháp y học, phát triển thành tựu khoa học của thế giới để kiểm soát bệnh tật, tầm soát thai nhi trước sinh, dùng giải pháp tiến bộ khoa học để nâng cao chất lượng giống nòi. Bởi lẽ, giống nòi là vấn đề gắn với sự tồn tại của dân tộc. Hơn nữa, cần có chính sách tiếp tục đầu tư để chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ, trẻ em.

Ngoài ra, một giải pháp quan trọng khác là cần kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác dân số. Bộ máy này phải gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả và đạt mục tiêu, đồng thời tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, đảm bảo làm sao nơi dân số tăng cao thì kiềm chế, dân số tăng thấp thì nâng lên, tránh mất cân bằng giới tính khi sinh, góp phần đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng dân số. (Gia đình & Xã hội, trang 6).

 

Hàng loạt bệnh viện tạm ngưng sử dụng thuốc gây tê Bupivacaine

Động thái này được đưa ra sau sự cố khiến 2 sản phụ chết tại Đà Nẵng.

Mất khoảng 2 tháng để xác định thuốc có an toàn

Ngày 21.11, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn và đoàn công tác của Bộ Y tế đến Đà Nẵng viếng, chia buồn với gia đình của 2 sản phụ tử vong. Đoàn công tác cũng đến Khoa Hồi sức tích cực – chống độc Bệnh viện (BV) Đà Nẵng thăm và động viên sản phụ N.T.H (33 tuổi, trú Q.Liên Chiểu) đang được điều trị tại đây. Sản phụ H. là người may mắn sống sót sau sự cố sản khoa tại BV Phụ nữ Đà Nẵng hôm 17.11.

Theo ông Sơn, đối với sự cố y khoa, đặc biệt là sự cố y khoa nghiêm trọng xảy ra như tại Đà Nẵng, cần phải phân tích rất nhiều yếu tố. Về nghi vấn do thuốc gây tê, ông Sơn nói: “Đối với số thuốc được niêm phong và kiểm định cần phải phân tích độ an toàn; tức có độc chất trong đó không, có nhiễm trùng hay không và đặc biệt là tạp chất trong đó không… Chưa có kết luận chính xác thì không quy kết cho một yếu tố nào, vì quy kết thì đều phải dựa trên phân tích trên hồ sơ bệnh án, có hội đồng chuyên môn, chuyên gia đầu ngành tham gia”. Cũng theo ông Sơn, để đánh giá kết quả về độ an toàn của thuốc, mất khoảng 1 tuần; còn đánh giá về tạp chất thì hiện giờ đang yêu cầu phía công ty cung cấp chất chuẩn; phân tích tạp chất mất khoảng gần 2 tháng.

Bupivacaine từng gây phản ứng khi dùng ?

Trong diễn biến liên quan, ngày 21.11, Sở Y tế Quảng Nam có văn bản về việc tạm thời ngừng sử dụng thuốc Bupivacaine WPW Spinal 0,5% Heavy (gọi tắt là thuốc Bupivacaine) do Ba Lan sản xuất. Theo đó, Sở Y tế Quảng Nam yêu cầu các đơn vị y tế công lập, các BV đa khoa ngoài công lập ngừng sử dụng loại thuốc này trong thời gian chờ kết quả trả lời mẫu kiểm nghiệm thuốc này của Viện Kiểm nghiệm T.Ư.

Cùng ngày, ông Nguyễn Đình Tuyến, Giám đốc BV Sản – Nhi tỉnh Quảng Ngãi, cũng có công văn gửi Sở Y tế tỉnh đề nghị có chỉ đạo về việc sử dụng thuốc Bupivacaine với BV này để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân (BN) điều trị tại đây. Theo BV Sản – Nhi tỉnh Quảng Ngãi, quá trình sử dụng thực tế lâm sàng trên người bệnh tại BV đã xảy ra phản ứng sau khi dùng thuốc gây tê Bupivacaine, với biểu hiện: mạch nhanh, tụt huyết áp kéo dài, hiệu quả giảm đau không tốt, độ giãn cơ không tốt.

Trong công văn gửi Sở Y tế Quảng Ngãi, Giám đốc BV Sản – Nhi tỉnh Quảng Ngãi cũng cho biết báo cáo của Hội Gây mê khu vực phía nam và các BV: Cần Thơ, Phụ nữ – Đà Nẵng, trong quá trình sử dụng thuốc gây tê này ở các tỉnh: Long An, Bến Tre, Cần Thơ, hiệu quả giảm đau của thuốc không hoàn toàn; làm tụt huyết áp kéo dài; một số trường hợp bị tụt huyết áp, co giật. Thuốc Bupivacaine được sử dụng ở BV Sản – Nhi tỉnh Quảng Ngãi do Công ty Warsaw Pharmaceutical Works Polfa S.A (Ba Lan) sản xuất; Công ty CP dược phẩm T.Ư CPC 1 trúng thầu cung ứng. BV Sản – Nhi tỉnh Quảng Ngãi đã nhập về hơn 8.300 ống Bupivacaine để sử dụng trong hai năm 2018 – 2019. Mỗi tháng BV này thực hiện 700 – 800 ca phẫu thuật có dùng Bupivacaine để gây tê tủy sống cho BN. Hiện BV đã sử dụng hơn 7.600 ống; hơn 700 ống còn lại vẫn được lưu giữ trong kho của BV và chờ chỉ đạo của Sở Y tế Quảng Ngãi.

Công ty nhập thuốc Bupivacaine nói gì ?

Chiều 21.11, trao đổi với PV Thanh Niên, đại diện chi nhánh Công ty CP dược phẩm T.Ư CPC 1 tại Đà Nẵng thông tin về thuốc gây tê Bupivacaine và lô thuốc 01DB0619 đã sử dụng trước khi 2 sản phụ tử vong, một người nguy kịch tại Đà Nẵng. Đại diện đơn vị này cho hay khi nhập thuốc Bupivacaine, công ty đều nhận phiếu kiểm nghiệm của nhà sản xuất. “Khi nhập thuốc vào BV thì nhà cung ứng phải cung cấp hồ sơ sản phẩm theo quy định. Và mỗi lần nhập thuốc phải có phiếu kiểm nghiệm rõ ràng”, đại diện này nói và cho biết thêm hiện đơn vị đã cung cấp các hồ sơ liên quan đến lô thuốc 01DB0619 cho cơ quan chức năng làm rõ. Cũng theo vị đại diện này, tính từ ngày 1.1 – 30.11, chi nhánh tại Đà Nẵng của công ty đã cung ứng 12.550 ống Bupivacaine cho các BV, trung tâm y tế thuộc các tỉnh Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Riêng lô thuốc gây tê 01DB0619 được sản xuất vào tháng 6.2019; hạn sử dụng đến ngày 12.6.2021. Theo thẻ kho, lô 01DB0619 có 2.200 ống. (Thanh niên, trang 17).

 

Yêu cầu Bộ Y tế nghiên cứu phản ánh về giá giường bệnh

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Y tế nghiên cứu, tham khảo các nội dung báo chí phản ánh về tình trạng thiếu bác sĩ, chưa có chính sách thu hút cán bộ ngành y và giá dịch vụ giường bệnh bất hợp lý.

Trước đó, báo chí phản ánh về dự thảo Thông tư xây dựng giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu do cơ sở y tế công lập cung cấp đề xuất giá giường nằm tại phòng điều trị theo yêu cầu tối đa 4 triệu đồng/ngày với bệnh viện đặc biệt, hạng I; bệnh viện tuyến tỉnh từ 600.000 đến 1,2 triệu đồng/giường/ngày.

Theo GS Phạm Gia Khải, giá dịch vụ giường nằm như vậy là quá cao. Bệnh viện công được đầu tư bằng tiền ngân sách nhưng lại phát triển dịch vụ khám, chữa bệnh theo yêu cầu để thu tiền cao là bất hợp lý”.

Đối với tình trạng thiếu bác sỹ, báo chí cũng phản ánh việc các bệnh viện, cơ sở y tế ở các tỉnh thiếu hụt nhân lực trầm trọng, khiến y, bác sĩ áp lực về công việc, lãnh đạo bệnh viện đau đầu. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu bác sĩ là do chế độ đãi ngộ thấp, chưa có chính sách thu hút cán bộ ngành y có trình độ về làm việc.

Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế nghiên cứu, tham khảo các nội dung nêu trên để thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước được giao. (Tiền phong, trang 2).

Bài viết liên quan

Điểm báo ngày 28/9/2020

Ngọc Nga

Điểm báo ngày 14/5/2019

CDC Hà Nam

Điểm báo ngày 14/3/2022

CDC Hà Nam

Để lại bình luận