Đau đầu là một cảm giác chủ quan của người bệnh, ảnh hưởng lớn tới hiệu suất công việc cũng như chất lượng cuộc sống.
Theo chia sẻ của PGS.TS Phạm Thị Bích Đào, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, biểu hiện đau đầu do nhiều nguyên nhân gây ra, có những nguyên nhân chẩn đoán được ngay nhưng cũng có những nguyên nhân rất khó tìm được hoặc không tìm ra.
Thái độ với biểu hiện đau đầu ở mỗi người một khác tùy theo sức chịu đựng cũng như nguyên nhân gây bệnh: có người rất lo lắng đi khám ngay do đau làm cho không ăn, không ngủ được; có người lại thấy rằng đau đầu là chuyện thường tình tự hết và chịu đựng. Và đúng là có dạng đau đầu tự vài tiếng sau thì hết hoặc hết sau vài ngày, tuy nhiên cũng có trường hợp bệnh nặng và nguy kịch đến tính mạng.
Phân biệt loại đau đầu nào nguy hiểm để đi khám sớm
Xuất hiện đột ngột ở người đang hoàn toàn bình thường
– Khởi phát đau đầu dữ dội, ở bệnh nhận trước đó khỏe mạnh thì hầu như chắc chắn có liên quan đến tổn thương nội sọ như chảy máu dưới nhện, hoặc viêm màng não.
– Đau đầu làm rối loạn giấc ngủ, đau đầu khi gắng sức, đau đầu kịch phát muộn: liên quan tới các tổn thương của não bộ.
Đau đầu và những dấu hiệu kèm theo
– Đau đầu kèm nôn vọt, không liên quan đến bữa ăn: lưu ý những tổn thương não như viêm màng não, áp xe não, u não…
– Đau đầu kèm triệu chứng thần kinh như u ám, ảnh hưởng đến thị giác hoặc chi, co giật, hoặc thay đổi trạng thái tâm thần: có thể đột quỵ não, áp xe não…
– Đau đầu kèm theo các dấu hiệu khu trú khác như thất ngôn, dị cảm, đau nhói hoặc yếu chân, tay…
– Đau đầu kèm theo các bệnh của răng hoặc mắt, bệnh của khớp thái dương hàm dưới, viêm xoang, tăng huyết áp, và rất nhiều các rối loạn nội khoa chung khác.
Vị trí đau đầu
Đau đầu ở một vị trí cố định kèm theo những viêm nhiễm mạn tính ở gần vị trí đau như viêm tai giữa mạn tính có chảy mủ tai thối: lưu ý loại trừ các biến chứng nội sọ do tai, vị trí của khối u hoặc áp xe não…
Hoàn cảnh xuất hiện
– Đau đầu sau chấn thương đầu, tổn thương đốt sống cổ…
– Đau đầu dữ dội ngay sau các can thiệp ngoại khoa vùng đầu mặt cổ…
– Đau đầu dữ dội sau sinh.
Với những nguyên nhân và đặc điểm đau đầu trên, người bệnh cần đi khám ngay để chẩn đoán xác định và can thiệp kịp thời.
Thường phải khám và điều trị tại bệnh viện với các thuốc theo nguyên nhân, chống đông (nếu có đột quỵ não), an thần, can thiệp đặt Stent các mạch tắc, phẫu thuật sọ não… Tùy theo biểu hiện lâm sàng ở từng trường hợp cụ thể mà bác sĩ có chỉ định cận lâm sàng cần thiết như CT-Scan hoặc MRI sọ, hệ thống mạch não, điện não đồ, chọc dịch não tủy…
Một số loại đau đầu khác
– Đau đầu do căng thẳng: thường khó tập trung vào công việc, đau âm ỉ như bị kẹp đầu và đau tăng khi stress, mệt mỏi, tiếng ồn hoặc ánh sáng. Thường đau toàn đầu, có thể đau nhiều ở cổ hoặc vùng chẩm và không có dấu hiệu thần kinh khu trú.
– Đau đầu do trầm cảm: Đau đầu tăng vào buổi sáng và có các triệu chứng trầm cảm đi kèm. Đau đầu thường có ảo giác.
– Đau đầu do rối loạn vận mạch: đau một bên theo nhịp đập của mạch thành cơn xảy ra ở tuổi trưởng thành. Thường cơn đau từ từ tăng dần và kéo dài vài giờ hoặc lâu hơn.
– Đau đầu từng vùng (đau thần kinh giống đau nửa đầu): thường gặp ở nam giới tuổi trung niên. Nguyên nhân của đau đầu từng vùng chưa rõ ràng nhưng có thể liên quan đến rối loạn mạch máu hoặc rối loạn hệ serotonin. Các cơn đau dữ dội ở vùng quanh hốc mắt một bên xảy ra hàng ngày, trong vài tuần và thường kết hợp với một hay nhiều dấu hiệu sau: sung huyết mũi cùng bên, chảy nước mũi, chảy nước mắt, sung huyết mắt và hội chứng Horner. Cơn thường xảy ra vào ban đêm làm bệnh nhân thức giấc và kéo dài dưới 2 giờ. Cơn đau mất đi một cách tự phát và sau đó vài tuần hoặc vài tháng sẽ có cơn tái phát khác.
Trong cơn đau, nhiều bệnh nhân nhận thấy rượu làm đau tăng, một số khác thấy rằng sang chấn, ánh sáng, một số thức ăn đẩy nhanh sự xuất hiện cơn. Ở một số trường hợp, cơn đau và các dấu hiệu thần kinh tái phát liên tục không giảm; đây được coi là đau đầu từng vùng mạn tính.
– Đau đầu do viêm động mạch tế bào khổng lồ (động mạch thái dương hoặc động mạch khác của sọ): Bệnh thường gặp ở người già do tổn thương động mạch thái dương nông, động mạch đốt sống, động mạch mắt, động mạch thể mi sau. Triệu chứng chính là đau đầu, kèm đau cơ, mệt mỏi, chán ăn, giảm cân. Mất thị lực là triệu chứng đáng ngại nhất. Sờ da vùng đầu và động mạch thái dương người bệnh sẽ tăng cảm giác đau.
– Đau đầu sau chấn thương: Đau đầu là triệu chứng nổi bật, thường xuất hiện sau một vài ngày, có thể nặng lên ở những tuần sau và sau đó đỡ dần, một số tác giả cho rằng yếu tố tâm lý rất quan trọng vì không có mối tương quan giữa mức độ nặng của chấn thương với đau đầu. Đau đầu âm ỉ theo mạch đập khu trú ở một vùng, một bên hoặc lan tỏa. Đôi khi có nôn, buồn hôn hoặc ám điểm nhấp nháy.
Có thể có chóng mặt và thường xảy ra khi thay đổi tư thế hoặc cử động đầu. Giảm trí nhớ, kém tập trung, cảm xúc không ổn định, dễ nổi nóng cũng là các triệu chứng thường gặp và đôi khi là triệu chứng nổi bật. Thời gian tồn tại của các triệu chứng một phần phụ thuộc vào mức độ của chấn thương, có khi với chấn thương nhẹ nhưng các triệu chứng cũng tồn tại hàng tháng.
Điện não đồ có thể thấy các biến đổi nhỏ không đặc hiệu, trong khi đó ghi điện rung giật nhãn cầu có thể thấy biểu hiện bệnh lý tiền đình trung ương hay ngoại biên. Chụp CT-Scan hoặc MRI sọ não đa số là bình thường. Điều trị là khó khăn nhưng tiên lượng tốt và phục hồi dần dần tùy thuộc vào nghề nghiệp. Đau đầu thường đáp ứng với các thuốc giảm đau thông thường.
– Đau đầu khi ho: Ho (cũng như gắng sức, hắt hơi, cười) có thể gây đau đầu dữ dội nhưng thường chỉ kéo dài trong một vài phút. Cơ chế sinh bệnh học chưa biết rõ và thường không có tổn thương cấu trúc. Tuy nhiên, cũng có 10% các trường hợp tổn thương nội sọ thường là hố sau (dị dạng Arnold-Chiari, chèn ép vào động mạch nền), u não và các tổn thương choán chỗ nội sọ khác đôi khi cũng có biểu hiện này. Vì vậy, cần tiến hành chụp CT-Scan hoặc MRI ở tất cả các bệnh nhân bị tái đi tái lại biểu hiện này trong vài năm vì một tổn thương nhỏ lúc đầu có thể bị bỏ qua.
Đau đầu này thường tự giảm đi mặc dù nó có thể tồn tại trong vài năm. Đôi khi các triệu chứng biến mất hoàn toàn sau khi chọc dịch não tủy mà không rõ cơ chế. Có thể dùng indomethacin (75 – 150 mg) để giảm đau.
– Một số thể loại đau nửa đầu:
Đau đầu kiểu đau nửa đầu liên quan đến giãn mạch quá mức và mạch đập của các nhánh động mạch cảnh ngoài.
Đau đầu kiểu đau nửa đầu động mạch thân nền là dạng ít gặp với các triệu chứng rối loạn thị giác ở cả hai mắt, sau đó là nói khó, loạng choạng, ù tai, dị cảm quanh miệng và đôi khi là rối loạn ý thức thoáng qua hoặc tình trạng lú lẫn. Tiếp theo là đau đầu theo nhịp đập của mạch (thường ở vùng chẩm) thường có buồn nôn và nôn.
Đau nửa đầu thể mắt thường là đau một bên có buồn nôn và nôn, nhìn đôi do liệt vận nhãn ngoài thoáng qua. Liệt vận nhãn là do liệt dây III, đôi khi dây VI cũng bị tổn thương, cơn đau kéo dài vài ngày thậm chí hàng tuần. Nhánh mắt của dây V cũng bị tổn thương ở một số bệnh nhân. Đau nửa đầu thể mắt hiếm gặp, nguyên nhân của đau nửa đầu thể mắt thường là dị dạng động mạch cảnh trong, đái tháo đường.
Trong một số ít các trường hợp đau đầu kiểu đau nửa đầu, các dấu hiệu thần kinh hoặc rối loạn cơ thể trở thành biểu hiện duy nhất (đau nửa đầu tương đương). Cũng rất hiếm khi các dấu hiệu thần kinh tồn tại vĩnh viễn sau cơn đau đầu kiểu đau nửa đầu.
– Đau đầu do nguyên nhân thần kinh khác:
Tất cả các tổn thương choán chỗ nội sọ đều có thể gây đau đầu do các mạch máu bị đè đẩy. Các u ở hố sau thường gây đau đầu vùng chẩm, u trên lều thường gây đau đầu hai bên trán, tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng đúng. Đau đầu không phải là triệu chứng đặc hiệu và có thể có nhiều mức độ khác nhau từ nhẹ đến nặng. Khi thay đổi tư thế hoặc gắng sức đau đầu có thể tăng lên, và có thể nôn, buồn nôn nhưng các triệu chứng này cũng có trong đau đầu kiểu đau nửa đầu.
Đau đầu cũng là triệu chứng của các tổn thương giả u của não. Các dấu hiệu rối loạn chức năng khu trú hoặc lan tỏa của não hoặc các dấu hiệu tăng áp lực nội sọ sẽ chỉ ra sự cần thiết để tiến hành các xét nghiệm sâu hơn. Tương tự như vậy, đau đầu tăng dần hoặc đau đầu mới xuất hiện ở tuổi trung niên hoặc tuổi già cũng đáng phải làm các xét nghiệm nếu không thấy nguyên nhân cụ thể.
Bệnh mạch máu não có thể đau đầu nhưng cơ chế chưa rõ. Đau đầu có thể xảy ra trong tắc động mạch cảnh trong hoặc mổ động mạch cảnh hoặc sau mổ bóc tách nội mạc động mạch cảnh.
Yếu tố thuận lợi: Bệnh nhân thường có tiền sử gia đình đau đầu kiểu đau nửa đầu; Sang chấn tâm lý, sang chấn cơ thể, thiếu ngủ hoặc ngủ quá nhiều, bỏ bữa…; Ăn, uống một số thức ăn (ví dụ chocolate), uống rượu hoặc dùng thuốc tránh thai đường uống là các điều kiện thuận lợi xuất hiện cơn đau đầu kiểu đau nửa đầu…
Xử trí
Điều trị đau đầu kiểu đau nửa đầu bao gồm loại bỏ các yếu tố thuận lợi, điều trị ngăn ngừa cơn hoặc điều trị triệu chứng nếu cần thiết.
Điều trị cơn đau
– Nằm nghỉ trong phòng tối, yên tĩnh.
– Uống ngay thuốc giảm đau thông thường (ví dụ aspirin) có tác dụng giảm đau.
– Các thuốc chống trầm cảm ba vòng có tác dụng cũng như tư vấn tâm thần.
– Các liệu pháp thư giãn cũng có tác dụng như xoa bóp, tắm nước nóng, và phản hồi sinh học. Phát hiện các nguyên nhân gây mệt mỏi kéo dài giúp cho điều trị tốt hơn.
Điều trị ngừa cơn là cần thiết nếu đau đầu kiểu đau nửa đầu xảy ra trên 2 hoặc 3 cơn trong một tháng. Thuốc chẹn kênh calci có thể làm giảm tần số cơn sau vài tuần, nhưng không làm giảm mức độ và thời gian của cơn đau. Không được dùng với thuốc chẹn beta.
Tỷ lệ đau đầu sau chọc dịch não tủy có thể giảm đi nếu sử dụng kim nhỏ và tỷ lệ này cũng giảm nếu sau chọc dịch não tủy bệnh nhân nằm ngửa hoặc nằm sấp.